Bài viết được viết bởi ThS.BS Ma Văn Thấm - Bác sĩ Nội Nhi, Khoa Nhi - Sơ sinh - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Phú Quốc.
Cytomegalovirus lần đầu tiên được chú ý vào năm 1881 bởi Ribbert H. Ông phát hiện thấy những tế bào trương to trong mô thận của một bệnh nhân bị giang mai bẩm sinh và trong tuyến mang tai không rõ tại sao mãi cho đến tận khi ông đọc được báo cáo của Jesionek và Kiolemenoglou thì mới có được giải thích.
4. Sinh lý bệnh chung của cytomegalovirus
Cytomegalovirus là một thành viên của họ 8 Herpesviruses gây bệnh ở con người, như herpesvirus 5 (HHV-5). CMV được gọi là một Betaherpesvirinae, dựa trên xu hướng của nó lây nhiễm các tế bào đơn nhân và tế bào lympho.
Cytomegalovirus là thành viên lớn nhất của gia đình herpesvirus, với một bộ gen DNA sợi kép của hơn 240 kbp, có khả năng mã hóa hơn 200 sản phẩm protein tiềm năng. Chức năng của hầu hết các protein này vẫn còn chưa rõ ràng. Như với các herpesviruses khác, cấu trúc của hạt virus là một capsid icosahedral, bao quanh bởi một vỏ bọc lipit bên ngoài bilayer.
Sự hiểu biết về quá trình nhân lên của virus cung cấp những hiểu biết cơ chế phân tử của điều trị kháng virus và miễn dịch bảo vệ. Cytomegalovirus sao chép rất chậm trong nuôi cấy tế bào, phản ánh mô hình của nó rất chậm tăng trưởng trong cơ thể (trái ngược với nhiễm virus herpes simplex HSV, mà tiến triển rất nhanh). Chu kỳ sao chép cytomegalovirus tạm thời chia thành 3 lớp điều hòa sau: ngay lập tức, sớm và muộn.
Sao chép Gene ngay lập tức xảy ra trong 4 giờ đầu tiên sau khi nhiễm virus, khi các protein điều hòa chính cho phép virus kiểm soát bộ máy tế bào được tổng hợp. Chất hoạt hóa chính cho quá trình này thuộc bộ gen của CMV là một trong những chất hoạt hóa Eukaryotic mạnh nhất được mô tả trong tự nhiên, điều này đã được phát hiện trong công nghệ sinh học hiện đại như một chất hoạt hóa hữu ích cho các biểu hiện gen trong liệu pháp gen và các nghiên cứu tiêm chủng.
Tiếp theo quá trình tổng hợp ngay lập tức của gen, các sản phẩm của gen sớm được phiên mã. Các sản phẩm gen ban đầu bao gồm các bản sao protein DNA và một số protein cấu trúc.
Cuối cùng, các sản phẩm gen muộn được thực hiện khoảng 24 giờ sau khi nhiễm bệnh, và các protein này chủ yếu là các protein cấu trúc có liên quan đến lắp ráp và đơn vị virion.
Tổng hợp các gen cuối phụ thuộc nhiều vào sự sao chép DNA của virus và có thể bị chặn bởi các chất ức chế polymerase DNA của virus, chẳng hạn như Ganciclovir. Màng lipid kép chứa glycoprotein được mã hóa của virus, đó là đích chủ yếu của đáp ứng dịch thể của vật chủ. Các glycoprotein này là thành phần cho việc tạo ra vacxin. Lớp proteinaceous giữa vỏ và lớp capsid bên trong, vỏ virus, chứa các protein là đích chủ yếu của đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Điều quan trọng nhất của các protein vỏ này là cái gọi là protein vỏ lớn, UL83 (phosphoprotein 65 [pp65]).
Một sản phẩm gen trên lâm sàng quan trọng khác, sản phẩm của UL97 gen, là một phosphotransferase. Mặc dù chức năng của protein này trong vòng đời của virus chưa được biết, nhưng gen này khá quan trọng cho lâm sàng bởi vì thuốc kháng virus, Ganciclovir có tác dụng phosphoryl hóa, trở thành một liệu pháp điều trị Cytomegalovirus có hiệu quả cao
Trên lâm sàng, một trong những biểu hiện của nhiễm Cytomegalovirus là tế bào chứa Cytomegalic. Các tế bào nhiễm to lên (xuất phát từ "Cytomegaly", ghép từ tên virus) chứa chất Intranuclear nhìn thấy trên mô bệnh học của mắt cú. Sự hiện diện của các tế bào này cho thấy nhiễm trùng đang tiến triển, mặc dù có thể không có ngay cả trong các mô bị nhiễm mạnh. Ở hầu hết các dòng tế bào, Cytomegalovirus rất khó để cấy trong phòng thí nghiệm, tuy nhiên, nhiễm trùng trong cơ thể dường như chủ yếu liên quan đến các tế bào biểu mô. Trong bệnh Cytomegalovirus nặng , sự liên quan có thể được quan sát thấy ở hầu hết các hệ thống cơ quan.
Hiểu biết về cơ chế phân tử trong sinh bệnh học của tổn thương mô do CMV còn ít, đặc biệt là nhiễm CMV bẩm sinh. Mặc dù hệ thần kinh trung ương là cơ quan chính bị tổn thương trong quá trình phát triển bào thai, việc tìm CMV từ dịch não tủy của trẻ sơ sinh có triệu chứng bị nhiễm bẩm sinh là khá khó khăn.
Bởi vì CMV có thể lây nhiễm sang các tế bào nội mô, một số tác giả đã mặc nhiên công nhận rằng một angitis virus có thể phải chịu trách nhiệm cho sự giảm tưới máu não gây chậm phát triển. Những người khác lại cho rằng CMV trực tiếp gây quái thai trên thai nhi. Quan sát về sự luân phiên của CMV trong chu kỳ tế bào và thương tổn do CMV đối với nhiễm sắc thể đã ủng hộ nghiên cứu này, tuy nhiên, giả thuyết này khó kiểm tra trên thực nghiệm.
5. Đáp ứng miễn dịch
Nhiễm trùng CMV tiên phát được xác định khi nhiễm trùng trên một cá nhân trước đó phải xác định có huyết thanh chẩn đoán âm tính với CMV. Trên các bệnh nhân này, các kháng thể CMV immunoglobulin M (IgM) có thể tìm thấy rất sớm 4-7 tuần sau khi nhiễm trùng ban đầu và có thể tồn tại kéo dài 16-20 tuần.
Các kháng thể CMV IgG tồn tại từ khi mắc bệnh đến hết cuộc đời. Hầu hết các kháng thể trung hòa đều trực tiếp chống lại lớp vỏ bọc của Glycoprotein gB. Các nghiên cứu chỉ ra có hơn 50% hoạt tính trung hòa với huyết thanh trung tính có liên quan đến glycoprotein gB. Tuy nhiên, các protein cấu trúc vi vỏ của virion như pp150, pp28 và pp65 biểu hiện mạnh và đáp ứng kháng thể bền vững.
CMV là một virus có tình điều hòa miễn dịch (immunomodulatory virus) và có thể làm nặng thêm một tình trạng bệnh lý miễn dịch sẵn có (như bệnh lupus ban đỏ).
CMV DNA trong máu và virus trong máu thường tìm thấy trên các cá nhân khỏe mạnh phụ nữ có CMV (+). Miễn dịch do mắc phải tự nhiên đối với virus dường như không ngăn ngừa được sự tái nhiễm hoặc quá trình virus ẩn mình trong cơ thể.
Miễn dịch qua trung gian tế bào được xem là yếu tố quan trọng nhất trong việc chống lại nhiễm virus CMV. Các bệnh nhân thiếu hụt miễn dịch qua trung gian tế bào có nguy cơ cao nhất đối với bệnh do CMV.
Các tế bào lymphocyte đặc hiệu CD4+ và CD8+ đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ miễn dịch sau nhiễm tiên phát hoặc sự tái hoạt của một bệnh lý đang tiềm tàng.
Các nghiên cứu về những người ghép tủy xương cho thấy không hình thành và phát triển lên các tế bào CD4+ hoặc CD8+ đặc hiệu cho CMV đối với nhóm nguy cơ cao nhất viêm phổi do CMV.
Bên cạnh đó, không có trường hợp nào viêm phổi do CMV đã được báo cáo trên những cá nhân ghép tủy đồng loại nhận truyền tế vào CD8+ đặc hiệu với virus CMV.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại. Bệnh viện cung cấp dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp, không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa. Khách hàng khi chọn thực hiện các xét nghiệm tại đây có thể hoàn toàn yên tâm về độ chính xác của kết quả xét nghiệm.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.