Ung thư thực quản là nguyên nhân đứng hàng thứ sáu gây tử vong do ung thư trên toàn thế giới. Ung thư thực quản thường bắt đầu trong các tế bào lót bên trong thực quản nhưng bệnh cũng có thể xảy ra bất cứ nơi nào dọc theo thực quản. Vậy ai dễ bị ung thư thực quản nhất?
1. Yếu tố nguy cơ ung thư thực quản
Tuổi tác
Nguy cơ bị ung thư thực quản tăng theo tuổi. Chưa đến 15% trường hợp ung thư thực quản xảy ra ở những người dưới 55 tuổi.
Giới tính
Đàn ông có nhiều nguy cơ ung thư thực quản cao hơn phụ nữ.
Thuốc lá và rượu
Việc sử dụng các sản phẩm thuốc lá, bao gồm thuốc lá, xì gà, thuốc lào và thuốc lá nhai, là một yếu tố nguy cơ chính gây ung thư thực quản. Một người sử dụng thuốc lá càng nhiều và sử dụng thuốc lá càng lâu thì nguy cơ ung thư càng cao.
Một người hút một gói thuốc lá mỗi ngày hoặc nhiều hơn có ít nhất hai lần nguy cơ mắc ung thư tuyến thực quản so với người không hút thuốc, và nguy cơ sẽ không biến mất hoặc giảm khi người đó không ngừng sử dụng thuốc lá.
Uống rượu cũng làm tăng nguy cơ ung thư thực quản. Càng uống nhiều rượu, khả năng mắc ung thư thực quản càng cao. Rượu làm tăng nguy cơ ung thư tế bào vảy (squamous cell carcinoma) cao hơn nguy cơ ung thư biểu mô tuyến.
Hút thuốc kết hợp với uống rượu làm tăng nguy cơ ung thư biểu tế bào vảy nhiều hơn so với chỉ sử dụng một trong hai thuốc lá hoặc rượu.
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (Gastroesophageal reflux disease)
Dạ dày thường tạo ra axit và enzyme để giúp tiêu hóa thức ăn. Ở một số người, axit có thể thoát ra từ dạ dày lên đến phần dưới của thực quản. Thuật ngữ y học bệnh lý này là bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) hoặc chỉ là trào ngược. Ở nhiều người, trào ngược gây ra các triệu chứng như ợ nóng hoặc có cảm giác đau ở giữa ngực. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, trào ngược không gây ra bất kỳ triệu chứng nào.
Những người bị GERD có nguy cơ mắc ung thư biểu mô tuyến thực quản cao hơn so với mặt bằng chung dân số. Nguy cơ này dường như cao hơn ở những người có triệu chứng thường xuyên hơn. Nhưng GERD rất phổ biến và hầu hết những người mắc bệnh này không tiếp tục phát triển ung thư thực quản. GERD cũng có thể gây ra thực quản Barrett, có liên quan đến nguy cơ cao hơn.
Thực quản Barrett (Barrett’s esophagus)
Nếu trào ngược axit dạ dày vào thực quản dưới diễn ra trong một thời gian dài, nó có thể làm hỏng lớp lót bên trong của thực quản. Điều này làm cho các tế bào vảy thực quản được thay thế bằng các tế bào tuyến. Những tế bào tuyến này thường trông giống như các tế bào lót dạ dày và ruột non, và có khả năng kháng axit dạ dày cao hơn. Tình trạng này được gọi là thực quản Barrett (hoặc Barrett).
Người bị trào ngược càng lâu càng có nhiều khả năng họ sẽ phát triển thực quản Barrett. Hầu hết những người bị thực quản Barrett có triệu chứng ợ nóng, nhưng nhiều người không có triệu chứng nào cả. Những người mắc bệnh viêm thực quản Barrett có nguy cơ phát triển ung thư biểu mô tuyến của thực quản (adenocarcinoma of the esophagus) cao hơn nhiều so với những người không có tình trạng. Tuy nhiên, hầu hết những người mắc bệnh thực quản Barrett không bị ung thư thực quản.
Các tế bào tuyến trong thực quản Barrett có thể trở nên bất thường hơn theo thời gian. Điều này có thể dẫn đến loạn sản, đây là tình trạng tiền ung thư. Chứng loạn sản được phân loại bằng cách các tế bào bất thường này dưới kính hiển vi. Loạn sản cấp độ thấp trông giống như các tế bào bình thường, trong khi loạn sản cấp độ cao thì càng bất thường hơn. Chứng loạn sản mức độ cao có liên quan đến nguy cơ ung thư cao nhất.
Béo phì
Những người thừa cân hoặc béo phì có nguy cơ mắc ung thư biểu mô tuyến thực quản cao hơn. Điều này một phần được giải thích bởi thực tế những người mắc bệnh béo phì có nhiều khả năng bị trào ngược dạ dày thực quản.
Chế độ ăn
Một số chất trong chế độ ăn uống có thể làm tăng nguy cơ ung thư thực quản. Ví dụ, chế độ ăn nhiều thịt chế biến có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư thực quản. Điều này có thể giúp giải thích tỷ lệ cao mắc bệnh ung thư này ở một số nơi trên thế giới.
Mặt khác, chế độ ăn nhiều trái cây và rau có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư thực quản. Lý do chính xác cho điều này vẫn chưa được giải thích rõ ràng, nhưng trái cây và rau có một số vitamin và khoáng chất có thể giúp ngăn ngừa ung thư.
Thường xuyên uống chất lỏng rất nóng (nhiệt độ 149 ° F hoặc 65 ° C hay nóng hơn nhiều so với một tách cà phê thông thường) có thể làm tăng nguy cơ mắc loại tế bào ung thư thực quản dạng vảy. Nguyên nhân ung thư thực quản trong trường hợp này có thể là hậu quả của chất lỏng nóng làm tổn thương các tế bào lót thực quản trong một thời gian dài.
Hoạt động thể chất
Những người tham gia hoạt động thể chất thường xuyên có nguy cơ ung thư biểu mô tuyến thực quản thấp hơn. Một người càng năng động, nguy cơ của họ càng thấp.
Co thắt tâm vị (Achalasia)
Trong bệnh lý này, cơ thắt của thực quản (lower esophageal sphincter) giãn không đúng cách khiến thức ăn và chất lỏng đi vào dạ dày gặp khó khăn và có xu hướng tích tụ ở thực quản dưới, khiến thực quản bị giãn ra theo thời gian. Các tế bào lót thực quản ở khu vực đó có thể bị kích thích do tiếp xúc với thực phẩm lâu hơn thời gian bình thường.
Những người bị co thắt tâm vị có nguy cơ mắc ung thư thực quản gấp nhiều lần so với người không mắc bệnh lý này. Trung bình, các bệnh ung thư được phát hiện khoảng 15 đến 20 năm sau khi người bệnh mắc co thắt tâm vị.
Tylosis
Đây là một bệnh hiếm gặp và mang tính di truyền, gây ra sự tăng trưởng thêm của lớp da trên cùng ở lòng bàn tay và lòng bàn chân. Những người mắc bệnh này cũng phát triển những khối u nhỏ (u nhú) trong thực quản và có nguy cơ mắc ung thư tế bào vảy ở thực quản rất cao.
Những người mắc bệnh tylosis cần được theo dõi chặt chẽ để cố gắng phát hiện ung thư thực quản sớm.
Hội chứng Plummer-Vinson
Những người mắc hội chứng hiếm gặp này có mạng lưới ở phần trên của thực quản, điển hình là cùng với thiếu máu (số lượng hồng cầu thấp) do nồng độ sắt thấp, viêm lưỡi, móng tay giòn và đôi khi lá lách lớn.
Mạng lưới là một mảnh mô mỏng kéo dài ra từ lớp lót bên trong của thực quản gây ra khu vực hẹp. Hầu hết các mạng lưới thực quản không gây ra bất kỳ vấn đề gì, nhưng những mạng lớn hơn có thể khiến thức ăn bị kẹt trong thực quản, có thể dẫn đến các vấn đề về nuốt và kích thích mãn tính ở khu vực đó do thức ăn bị mắc kẹt.
Khoảng 1 trong 10 người mắc hội chứng này sẽ phát triển ung thư tế bào vảy ở thực quản hoặc ung thư ở phần dưới của cổ họng (hypopharynx).
Tổn thương thực quản
Lye là một hóa chất được tìm thấy trong các chất tẩy rửa công nghiệp và gia dụng mạnh như chất tẩy rửa cống. Lye là một tác nhân ăn mòn có thể đốt cháy và phá hủy các tế bào. Vô tình uống chất tẩy rửa có chất này có thể gây bỏng hóa chất nghiêm trọng ở thực quản. Khi vết thương lành lại, mô sẹo có thể khiến một khu vực của thực quản trở nên rất hẹp. Những người mắc các bệnh này bị tăng nguy cơ ung thư thực quản tế bào vảy và thường xảy ra nhiều năm sau đó.
Tiền sử của một số bệnh ung thư khác
Những người đã mắc một số bệnh ung thư khác, chẳng hạn như ung thư phổi, ung thư miệng và ung thư vòm họng có nguy cơ cao mắc ung thư biểu mô tế bào vảy của thực quản. Điều này có thể là do những bệnh ung thư này cũng có thể là do hút thuốc lá gây ra.
Virus gây u nhú ở người (Human Papilloma Virus - HPV)
HPV là một nhóm gồm hơn 100 loại virus. Chúng được gọi là virus papilloma vì một số trong chúng gây ra một loại tăng trưởng được gọi là u nhú (hay mụn cóc). Người có nhiễm trùng với một số loại HPV có liên quan đến một số bệnh ung thư, bao gồm ung thư vòm họng, ung thư hậu môn và ung thư cổ tử cung.
Dấu hiệu nhiễm trùng HPV đã được tìm thấy ở một phần ba bệnh ung thư thực quản từ các bệnh nhân ở các vùng của Châu Á và Nam Phi. Nhưng dấu hiệu nhiễm trùng HPV lại không được tìm thấy trong bệnh ung thư thực quản từ các bệnh nhân ở các khu vực khác, bao gồm cả Hoa Kỳ. HPV là một nguyên nhân hiếm gặp của ung thư thực quản.