Các hội chứng nhược cơ bẩm sinh

Bài viết bởi Bác sĩ Vũ Duy Dũng - Khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City

Bệnh nhược cơ (MG) là một bệnh có thể điều trị tốt với nhiều phương pháp điều trị hiệu quả và với một quá trình diễn biến tự nhiên liên tục được cải thiện nhờ các xét nghiệm chẩn đoán tốt hơn và các thuốc điều trị hiệu quả. Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân MG có thể rất bổ ích cho bất cứ bác sĩ thần kinh nào vì hầu hết bệnh nhân có thể sống cuộc sống bình thường nếu điều trị hợp lý.

1. Hội chứng nhược cơ bẩm sinh là gì?

Các hội chứng nhược cơ bẩm sinh là các bệnh lý synap thần kinh-cơ di truyền rất hiếm gặp gây ra bởi các biến thể bệnh lý trong các gen mã hóa các protein khác nhau biểu lộ tại synap thần kinh-cơ (Bảng 2). Những gen liên quan hay gặp nhất là là những gen mã hóa cho các tiểu đơn vị AChR (CHRNE, CHRNA1, CHRNB1, CHRND) và gây ra thiếu hụt AChR hoặc bất thường chức năng động học của AChR với thiếu hoặc thừa chức năng. Các gen liên quan hay gặp khác bao gồm một số gen mã hóa cho các protein thiết yếu cho sự phát triển và chức năng của màng tận cùng (DOK7, RAPSN, AGRN, LRP4, MUSK). Các đột biến COLQ gây thiếu hụt acetylcholinesterase ở màng tận cùng; các đột biến CHAT gây ra một hội chứng nhược cơ bẩm sinh trước synap do thiếu acetyltransferase (Bảng 2).


Hội chứng nhược cơ bẩm sinh gây ra bởi các biến thể bệnh lý trong các gen mã hóa các protein khác nhau biểu lộ tại synap thần kinh-cơ
Hội chứng nhược cơ bẩm sinh gây ra bởi các biến thể bệnh lý trong các gen mã hóa các protein khác nhau biểu lộ tại synap thần kinh-cơ

Các hội chứng nhược cơ bẩm sinh di truyền theo kiểu gen trội hoặc gen lặn, và khởi phát các triệu chứng thường ở lúc sinh hoặc giai đoạn sớm của thời kỳ trẻ nhỏ, hiếm khi ở giai đoạn muộn của thời kỳ trẻ nhỏ hoặc giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Các triệu chứng lâm sàng chính bao gồm yếu mỏi cơ vân ở các cơ mắt, hành não, chân tay, và hô hấp theo các kiểu khác nhau và mức độ nặng khác nhau. Ở trẻ nhũ nhi, các triệu chứng bao gồm khóc và bú yếu, suy hô hấp, ngừng thở, xanh tím, khó cho ăn, thở rít, sụp mi, yếu cơ mặt, và đột tử. Muộn hơn ở thời kỳ trẻ nhỏ, các mốc phát triển vận động có thể bị chậm, và yếu mỏi cơ gây ra sụp mi dao động, khó chạy nhảy và khó leo cầu thang. Cơ tim và cơ trơn không bị ảnh hưởng, và chức năng nhận thức là bình thường ở phần lớn bệnh nhân.

Bảng 2: Các hội chứng nhược cơ bẩm sinh hay gặp nhất và các đặc trưng của chúng

2. Chẩn đoán hội chứng nhược cơ bẩm sinh

Chẩn đoán phân biệt chính bao gồm nhược cơ huyết thanh âm tính, các bệnh cơ bẩm sinh, và các nguyên nhân khác của hội chứng trẻ nhũ nhi mềm.

Một số đặc trưng lâm sàng là rất điển hình của một số thể nhất định của các hội chứng nhược cơ bẩm sinh và cung cấp thông tin gợi ý để hướng đến chẩn đoán. Ví dụ, các đợt cấp và các cơn ngừng thở gây ra do sốt hoặc kích động, tiền sử gia đình có đột tử trẻ nhũ nhi, và cải thiện theo thời gian là điển hình của hội chứng nhược cơ bẩm sinh với ngừng thở từng cơn (trước đó có tên gọi nhược cơ trẻ nhũ nhi gia đình) gây ra do các đột biến CHAT. Cứng đa khớp bẩm sinh, co cứng, hội chứng trẻ nhũ nhi mềm, suy hô hấp sớm, và ngừng thở từng cơn xảy ra ở trẻ nhũ nhi mắc hội chứng nhược cơ bẩm sinh gây ra do các khiếm khuyết RAPSN. Thở rít ở trẻ nhũ nhi, teo lưỡi, sụp mi với bảo tồn cử động mắt, các đặc trưng mặt của bệnh cơ, nặng lên với thuốc ức chế acetylcholinesterase và cải thiện rõ với ephedrine hoặc albuterol là các đặc điểm điển hình của khiếm khuyết DOK7.

Chẩn đoán dựa trên các đặc điểm lâm sàng điển hình. Những đặc điểm này bao gồm không có các kháng thể AChR hoặc MuSK trong huyết thanh; không có dấu hiệu điển hình của các bệnh cơ bẩm sinh trên sinh thiết cơ; giảm CMAP trên kích thích dây thần kinh lặp lại tần số thấp; CMAP lặp đi lặp lại sau kích thích đơn (“đáp ứng kép với một lần kích thích dây thần kinh” là điển hình của hội chứng nhược cơ bẩm sinh kênh ion chậm và thiếu acetylcholinesterase màng tận cùng/hội chứng nhược cơ bẩm sinh COLQ); rung bất thường trên EMG sợi đơn; không đáp ứng lâm sàng với lọc huyết tương hoặc các thuốc ức chế miễn dịch khác; một đáp ứng dương tính với acetylcholinesterase trong hầu hết các ca bệnh nhưng không phải tất cả; và xác định một khiếm khuyết ở một trong các gen được biết gây ra một hội chứng nhược cơ bẩm sinh. Các xét nghiệm gen có thể bắt đầu với xét nghiệm đơn gen trong các ca bệnh với các đặc điểm điển hình của một hội chứng nhược cơ bẩm sinh cụ thể hoặc xét nghiệm nhiều gen hoặc cả bộ gen trong các ca bệnh ít gợi ý lâm sàng điển hình. Danh mục hầu hết các gen bệnh lý trong các hội chứng nhược cơ bẩm sinh đã có trên thị trường xét nghiệm.


Xét nghiệm gen có thể chẩn đoán hội chứng nhược cơ bẩm sinh
Xét nghiệm gen có thể chẩn đoán hội chứng nhược cơ bẩm sinh

Điều trị bằng các thuốc ức chế acetylcholinesterase (pyridostigmine và 3,4-diaminopyridine) là hiệu quả trong hầu hết các ca hội chứng nhược cơ bẩm sinh với ngoại lệ là hội chứng nhược cơ bẩm sinh DOK7 và kênh chậm. Albuterol và ephedrine là rất hiệu quả trong hội chứng nhược cơ bẩm sinh với các khiếm khuyết DOK7COLQ. Fluoxetine có lợi ở một số bệnh nhân mắc hội chứng nhược cơ bẩm sinh kênh chậm.


Thuốc ức chế acetylcholinesterase có hiệu quả trong điều trị hội chứng nhược cơ bẩm sinh
Thuốc ức chế acetylcholinesterase có hiệu quả trong điều trị hội chứng nhược cơ bẩm sinh

KẾT LUẬN

Các hội chứng nhược cơ bẩm sinh là những bệnh rất hiếm gặp mà cần phân biệt với các thể tự miễn của các bệnh lý synap thần kinh-cơ vì điều trị có thể rất hiệu quả.

Nguồn:

Emma Ciafaloni. Myasthenia Gravis and Congenital Myasthenic Syndromes. Continuum (Minneap Minn) 2019; 25 (6, Muscle and Neuromuscular Junction Disorders):1767-1784.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe