Bài viết bởi Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan (EGE), là một loại rối loạn tiêu hóa tăng bạch cầu ái toan (EGID), là một bệnh viêm mãn tính hiếm gặp, đặc trưng bởi sự xâm nhập loang lổ hoặc lan tỏa của bạch cầu ái toan vào các lớp khác nhau của đường tiêu hóa. Dữ liệu dịch tễ học chính xác còn thiếu vì hầu hết các nghiên cứu hiện tại chỉ giới hạn trong các loạt trường hợp nhỏ và các báo cáo trường hợp đơn lẻ.
1. Viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan có phổ biến?
Tỷ lệ mắc viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan được ước tính là khoảng 1-30 / 100000. Hơn nữa, không có tuyên bố đồng thuận hiệu quả nào tồn tại để hướng dẫn thực hành lâm sàng và luôn là một thách thức đối với các bác sĩ lâm sàng trong việc chẩn đoán viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan. Mặc dù các nghiên cứu gần đây và các báo cáo trường hợp đã chứng minh rằng tỷ lệ mắc viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan ngày càng tăng, chúng tôi tin rằng tỷ lệ mắc viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan đang được đánh giá thấp.
Rối loạn tiêu hóa tăng bạch cầu ái toan (EGID) được Kaijer mô tả lần đầu tiên vào năm 1937 và được đặc trưng bởi sự xâm nhập của bạch cầu ái toan vào các lớp khác nhau của đường tiêu hóa mà không có nguyên nhân thứ phát. Rối loạn tiêu hóa tăng bạch cầu ái toan chủ yếu liên quan đến viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan (EoE) và viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan (EGE). Ở bệnh nhân châu Á, EGE xảy ra thường xuyên hơn EoE so với bệnh nhân da trắng.
Có bao nhiêu bệnh nhân bị viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan trên toàn thế giới bị bỏ sót và điều này xảy ra như thế nào? Rất ít nghiên cứu đã tìm cách trả lời câu hỏi này. Để nâng cao hiểu biết của các bác sĩ lâm sàng về viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan và để tăng tỷ lệ chẩn đoán, các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan đã được điều trị tại bệnh viện đã được nhiêu tác giả tóm tắt hồi cứu. Với những bệnh nhân đã trải qua nội soi dạ dày và nội soi đại tràng và chẩn đoán bệnh lý chỉ cho thấy tình trạng viêm mãn tính trong hồ sơ bệnh án, các nhóm nghiện cứu đã ghi danh; ghi nhận xác suất chẩn đoán viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan bị bỏ sót sau đó được xem xét lại. Cuối cùng, những bệnh nhân có các triệu chứng khó chịu ở đường tiêu hóa trên trong ít nhất một tháng đã được đưa vào nghiên cứu, và xác suất chẩn đoán bỏ sót viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan đã được khảo sát tiền cứu.
2. Tại sao lại bỏ sót chẩn đoán viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan?
Theo các nghiên cứu trước đây, tỷ lệ mắc EGE được ước tính vào khoảng 1-30 / 100000. Các nghiên cứu gần đây và các báo cáo trường hợp đã chứng minh rằng tỷ lệ này ngày càng gia tăng. Trong nghiên cứu của họ, Reed và cộng sự tiết lộ rằng trong số tất cả các mẫu sinh thiết thu được qua nội soi trên tại trung tâm của họ, 0,67% trong số họ đáp ứng các tiêu chuẩn cho EGE. Điều này cho thấy rằng EGE không hiếm như người ta nghĩ trước đây. Tỷ lệ chẩn đoán EGE bị bỏ sót có thể rất cao. Nghiên cứu hồi cứu của nhiều tác giả cho thấy khả năng 4,26% trường hợp bị bỏ sót chẩn đoán EGE ở những bệnh nhân có kết quả nội soi dạ dày và mô bệnh học chỉ cho thấy tình trạng viêm mãn tính. Nghiên cứu của họ cũng cho thấy khả năng 4,40% trường hợp bị bỏ sót chẩn đoán EGE ở những bệnh nhân có kết quả nội soi đại tràng và mô bệnh học chỉ cho thấy tình trạng viêm mãn tính. Nghiên cứu tiền cứu cho thấy 5,74% bệnh nhân có các triệu chứng mãn tính khó chịu ở đường tiêu hóa trên có thể đại diện cho các trường hợp bỏ sót chẩn đoán EGE. Do đó, tỷ lệ mắc viêm dạ dày ruột do tăng bạch cầu ái toan đang bị đánh giá thấp, không chỉ vì tỷ lệ mắc viêm dạ dày ruột do tăng bạch cầu ái toan đang gia tăng mà còn vì rất dễ bỏ sót chẩn đoán viêm dạ dày ruột do tăng bạch cầu ái toan trong thực hành lâm sàng.
Do tính chất không đặc hiệu của các triệu chứng của viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan, đặc biệt là ở những bệnh nhân có các triệu chứng nhẹ, nhiều bác sĩ lâm sàng hiếm khi nghĩ đến viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan trừ khi các triệu chứng này là khó chịu hoặc tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi. Người ta biết rằng không phải tất cả các bệnh nhân viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan đều có mức tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi, điều này có thể dẫn đến chẩn đoán bỏ sót một số bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan máu ngoại vi bình thường. Hơn nữa, chẩn đoán xác định viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan thường dựa vào nội soi tiêu hóa và mô bệnh học, đặc biệt để xác định tổng số bạch cầu ái toan thâm nhiễm trên một trường công suất cao, nhưng các nhà giải phẫu bệnh không đánh giá chính xác số lượng bạch cầu ái toan thâm nhiễm trừ khi bác sĩ lâm sàng có một yêu cầu đặc biệt để làm như vậy.
Về lý do của việc bỏ sót chẩn đoán viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan, chúng tôi xem xét tính không đặc hiệu của các triệu chứng và biểu hiện nội soi của viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan, sự hiểu biết không đầy đủ về viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan và thiếu sự liên lạc giữa bác sĩ lâm sàng và bác sĩ giải phẫu bệnh, trong số các lý do khác. Các biểu hiện lâm sàng của viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan phụ thuộc rất nhiều vào vị trí và độ sâu thâm nhiễm của bạch cầu ái toan. Các biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là đau bụng, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, sụt cân, chướng bụng, khó nuốt và trong một số trường hợp, xuất huyết tiêu hóa. Hầu hết bệnh nhân viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan không biểu hiện bất kỳ triệu chứng cụ thể nào, và con số này có thể cao đến 80% tổng số bệnh nhân viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan. Như trong nghiên cứu của nhiều tác giả, những bệnh nhân này luôn có biểu hiện đau bụng, khó chịu vùng thượng vị, chướng bụng, buồn nôn và nôn, tiêu chảy cùng các triệu chứng khác.
Ngoại trừ những người có một số triệu chứng hoặc dấu hiệu “nghiêm trọng” như sụt cân, xuất huyết tiêu hóa, thiếu máu, hẹp môn vị, tắc ruột hoặc cổ trướng, bệnh nhân luôn được chẩn đoán là “viêm dạ dày” hoặc “viêm ruột không đặc hiệu”. Ngay cả ở những bệnh nhân được chỉ định nội soi, trình bày trong kết quản nội soi của họ cũng thiếu tính đặc hiệu. Các biểu hiện nội soi chủ yếu biểu hiện như sung huyết niêm mạc, phù nề, xuất huyết, ăn mòn và loét. Nếu bác sĩ lâm sàng không xem xét viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan và nếu bạch cầu ái toan không được phát hiện trong máu và mẫu sinh thiết, viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan rất dễ bị bỏ sót.
Sự gia tăng mức độ của bạch cầu ái toan ngoại vi là một yếu tố quan trọng trong chẩn đoán viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan. Người ta biết rằng không phải tất cả các bệnh nhân viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan đều có mức tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi. Các nghiên cứu hiện tại cho thấy khoảng 70% -90% bệnh nhân viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan có số lượng bạch cầu ái toan ngoại vi tăng cao. Theo nghiên cứu hồi cứu của một số tác giả, hầu như tất cả bệnh nhân viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan đều có số lượng bạch cầu ái toan ngoại vi tăng cao, trong khi trong nghiên cứu tiền cứu của một số tác giả khác, chỉ khoảng 30% bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan có số lượng bạch cầu ái toan ngoại vi tăng cao. Do đó, mức độ cao của bạch cầu ái toan ngoại vi là rất quan trọng trong chẩn đoán viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan, nhưng nó không phải là bắt buộc. Chờ đợi để quan sát sự gia tăng số lượng bạch cầu ái toan ngoại vi trước khi xem xét viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan là một sai lầm lớn, thường dẫn đến việc bỏ sót các chẩn đoán và các xét nghiệm y tế không cần thiết. Do đó, chúng tôi tin rằng chẩn đoán bỏ sót viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan xảy ra dễ dàng hơn ở những bệnh nhân có biểu hiện nhẹ và những người có tình trạng tổng thể tốt hơn.
Vì mức độ bình thường của bạch cầu ái toan ngoại vi được thấy ở một số bệnh nhân bị viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan, bằng chứng về một hoặc nhiều vùng ở ống tiêu hoá bị bạch cầu ái toan xâm nhập là đáng tin cậy hơn và cần thiết để chẩn đoán. Không giống như thực quản, đường tiêu hóa khỏe mạnh thường chứa một số lượng nhất định bạch cầu ái toan. Do đó, các nghiên cứu khác nhau đã xác định số lượng bạch cầu ái toan thâm nhiễm như một dấu hiệu của thâm nhiễm bệnh lý ở các mức độ khác nhau. Dạ dày và ruột non, đặc biệt là antrum và tá tràng, là những vị trí bị ảnh hưởng nhiều nhất trong viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan. Theo các nghiên cứu, nên sinh thiết ở hang vị, và cần lấy ít nhất 5-6 tiêu bản sinh thiết để cải thiện khả năng phát hiện tích cực thâm nhiễm bạch cầu ái toan. Một nghiên cứu khẳng định rằng gần 50% bệnh nhân viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan có biểu hiện bất thường của bạch cầu ái toan trong đại tràng và trực tràng. Do đó, đối với những bệnh nhân nghi ngờ có kết quả âm tính bằng nội soi dạ dày, nội soi đại tràng là cần thiết để thu thập bằng chứng về viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan. Hơn nữa, trong một số trường hợp, nội soi lặp lại có thể hữu ích. Quan trọng hơn, vì các nhà giải phẫu bệnh không thường xuyên tính toán số lượng bạch cầu ái toan trên lam sinh thiết, nên một lời nhắc nhở đặc biệt nên được gửi đến các nhà giải phẫu bệnh khi nghi ngờ viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu ái toan.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ uy tín được nhiều bệnh nhân tin cậy trong thực hiện kỹ thuật chẩn đoán và điều trị các bệnh lý tiêu hoá. Cùng với đó, tại Bệnh viện Vinmec, chẩn đoán bệnh lý đường tiêu hoá được thực hiện thông qua kỹ thuật nội soi dạ dày và nội soi đại tràng với máy nội soi Olympus CV 190, với chức năng NBI (Narrow Banding Imaging - nội soi với dải tần ánh sáng hẹp) cho kết quả hình ảnh phân tích bệnh lý niêm mạc rõ nét hơn so với nội soi thông thường, phát hiện các tổn thương viêm, các tổn thương ung thư tiêu hoá giai đoạn sớm. Bệnh viện Vinmec với cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại cùng đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, luôn tận tâm tận lực trong khám chữa bệnh, khách hàng có thể yên tâm với dịch vụ nội soi dạ tiêu hoá tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo
- Kodjo-Kunale Abassa, Xian-Yi Lin, Jie-Ying Xuan, Hao-Xiong Zhou, Yun-Wei Guo. Diagnosis of eosinophilic gastroenteritis is easily missed. World J Gastroenterol. May 21, 2017; 23(19): 3556-3564
- Hirano I, Moy N và cộng sự (2013). Endoscopic assessment of the esophagus features of eosinophilic oesophagitis: validation of a novel classification and grading system Gut, 62(4),: 489 -95