Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ Nội tim mạch - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Phú Quốc
Đau thắt ngực là do giảm lưu lượng máu đến tim dẫn đến cơ tim không nhận đủ oxy. Cơn đau thường được kích hoạt bởi hoạt động quá sức hoặc căng thẳng. Có hai loại đau thắt ngực gồm ổn định và không ổn định, trong đó loại đau thắt ngực ổn định hay còn gọi là bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính diễn ra phổ biến hơn.
1. Nguyên nhân của bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính
Nguyên nhân của bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính do mảng xơ vữa động mạch được hình thành trong động mạch vành và gây ra tắc nghẽn một phần, chặn đường lưu thông của máu trong động mạch. Tắc nghẽn một phần này cho phép lưu lượng máu đến cơ tim đầy đủ, không bị thiếu oxy nhưng chỉ diễn ra trong thời gian nghỉ ngơi, vì vậy khi nghỉ ngơi, người bệnh không có đau thắt ngực.
Tuy nhiên, tắc nghẽn một phần cũng làm hạn chế lượng máu tối đa mà động mạch có thể cung cấp cho tim. Vì vậy, thời điểm cơ tim cần phải làm việc nhiều hơn, như khi gắng sức (chạy, bơi, lên cầu thang,...) hoặc căng thẳng về mặt cảm xúc, lưu lượng máu không thể tăng đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cơ tim. Hậu quả là cơ tim bị thiếu máu và thiếu oxy dẫn tới cơn đau thắt ngực xảy ra.
Một khi gắng sức về thể chất đã dừng lại do các triệu chứng đau thắt ngực khiến người bệnh phải dừng lại, khi đó lượng oxy cần thiết cho cơ tim giảm xuống mức cơ bản. Trong vài phút, thiếu máu cục bộ sẽ hết và đau thắt ngực sẽ biến mất.
2. Chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính
Để chẩn đoán bệnh này, bác sĩ sẽ bắt đầu khám sức khỏe tổng quát và hỏi về các triệu chứng trước kia cũng như các triệu chứng hiện tại khiến người bệnh phải đi khám. Ngoài ra, bác sĩ cũng hỏi về các yếu tố nguy cơ như tiền sử gia đình có ai mắc mắc bệnh tim mạch hay không.
Để xác định mức độ tắc nghẽn và khẳng định chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính, bác sĩ sẽ thực hiện thêm một số xét nghiệm và kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh khác như:
2.1 Điện tâm đồ (ECG hoặc EKG)
Mỗi nhịp đập của trái tim được kích hoạt bởi một xung điện được tạo ra từ các tế bào đặc biệt trong tim. Điện tâm đồ ghi lại các tín hiệu điện này khi chúng đi qua tim. Trong điện tâm đồ thiếu máu cơ tim, bác sĩ kiểm tra các sóng của nhịp tim để xem liệu lưu lượng máu chảy qua tim có bị chậm lại hoặc bị gián đoạn hay không.
2.2 Xét nghiệm gắng sức
Xét nghiệm gắng sức hay còn gọi là xét nghiệm căng thẳng tim. Trong bài kiểm tra, người bệnh sẽ tập thể dục bằng cách đi bộ trên máy chạy bộ hoặc đạp xe đạp đứng yên. Trong khi tập thể dục, người bệnh sẽ được theo dõi huyết áp và điện tâm đồ. Nếu không thể tập thể dục, người bệnh có thể được sử dụng các loại thuốc khiến tim của người bệnh phải làm đập nhiều hơn để mô phỏng tương tự như đang tập thể dục.
2.3 Siêu âm tim
Siêu âm tim sử dụng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh của tim. Bác sĩ sử dụng những hình ảnh này để xác định vùng cơ tim đã bị tổn thương do lưu lượng máu kém.
2.4 Kiểm tra stress hạt nhân (nuclear stress test)
Xét nghiệm này giúp đo lưu lượng máu đến cơ tim cả khi nghỉ ngơi và trong khi căng thẳng. Nó giống như xét nghiệm gắng sức thông thường, nhưng trong kiểm tra stress hạt nhân, bác sĩ có sử dụng thêm một chất phóng xạ được tiêm vào máu của người bệnh. Chất này khi đi vào máu sẽ đi đến tim của người bệnh. Sau đó, bác sĩ sẽ sử dụng một máy quét đặc biệt để chụp các chất phóng xạ trong tim và tạo ra hình ảnh của cơ tim. Trong trường hợp, lưu lượng máu đến một phần nào đó trong cơ tim bị giảm thì sẽ không có nhiều chất phóng xạ đến vùng đó.
2.4 Chụp X-quang ngực
Chụp X-quang ngực để kiểm tra tim và phổi của người bệnh. Kỹ thuật này có thể tìm kiếm các bệnh lý khác và kiểm tra tim người bệnh có bị phì đại không.
2.5 Xét nghiệm máu
Một số enzyme của tim sẽ từ từ rò rỉ ra máu nếu tim người bệnh bị tổn thương do đau tim, do đó xét nghiệm máu sẽ kiểm tra sự hiện diện của các enzyme này.
2.6 Chụp mạch vành
Chụp mạch vành sử dụng tia X quang để kiểm tra bên trong các mạch máu của tim. Trong chụp động mạch vành, người bệnh được tiêm chất cản quang được nhìn thấy khi chụp bằng máy X-quang. Máy X-quang nhanh chóng chụp một loạt ảnh về mạch vành, cung cấp hình ảnh nhìn chi tiết bên trong các mạch máu của người bệnh.
3. Điều trị bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính
Mục tiêu của điều trị bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính là (1) làm mất hoặc làm giảm các triệu chứng đau thắt ngực, (2) ngăn chặn các mảng xơ vữa động mạch tiếp tục phát triển và (3) phòng ngừa các biến chứng nghiêm trọng hơn như nhồi máu cơ tim, suy tim và tử vong.
Điều trị bao gồm thuốc, xem xét liệu có cần điều trị xâm lấn hay không và điều chỉnh lối sống để ngăn ngừa các biến chứng. Điều trị có thể bao gồm một hoặc nhiều loại thuốc để làm giảm các cơn đau thắt ngực như nitrat, thuốc chẹn beta, thuốc chẹn kênh canxi và/hoặc ranolazine (Ranexa).
Ở một người bị bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính, có thể cần điều trị xâm lấn (bằng stent hoặc bỏ qua phẫu thuật) chỉ được sử dụng khi điều trị nội khoa không kiểm soát được các triệu chứng.
Bất cứ ai đã phát triển biến chứng về bệnh mạch vành nên bắt đầu thay đổi lối sống và sử dụng thuốc để làm chậm sự tiến triển của bệnh. Người bệnh nên điều trị hoặc kiểm soát các yếu tố nguy cơ khiến bệnh về bệnh mạch vành nặng hơn như tăng huyết áp, tiểu đường hoặc hội chứng chuyển hóa, rối loạn mỡ máu, thừa cân, ít vận động và hút thuốc lá.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.