Bệnh nguyên bào nuôi là sự tăng sinh của tổ chức nguyên bào nuôi (hình thành khối u vùng tử cung) ở phụ nữ mang thai. Các biểu hiện có thể bao gồm tử cung to quá mức, nôn mửa, chảy máu âm đạo, tiền sản giật,... đặc biệt là trong giai đoạn đầu của thai kỳ.
1. Tổng quan về bệnh u nguyên bào nuôi trong thai kỳ
Bệnh nguyên bào nuôi là sự hình thành khối u có nguồn gốc từ lá nuôi, bao quanh phôi thai và phát triển thành rau và màng ối. Bệnh xảy ra trong giai đoạn mang thai hoặc sau khi mang thai. Nếu bệnh xảy ra trong thai kỳ, sảy thai tự nhiên, sản giật hoặc thai chết thường xảy ra. Bào thai hiếm khi sống sót (tỷ lệ sống 0,00005%)
Yếu tố nguy cơ của bệnh liên quan đến tuổi của người mẹ, tuổi càng cao thì tần suất càng hay gặp. Các nước châu Á tỷ lệ cao hơn châu Âu. Điều kiện kinh tế xã hội cũng là yếu tố nguy cơ gây bệnh nguyên bào nuôi trong thai kỳ. Đa số bệnh nguyên bào nuôi là ác tính; một số khác thì lành tính nhưng có xu hướng ác tính cao.
2. Phân loại bệnh nguyên bào nuôi trong thai kỳ gồm
Chửa trứng: có thể chửa trứng toàn toàn hoặc chửa trứng bán phần. Đây jà tình trạng thai nghén đặc trưng bởi sự tăng sinh bất thường của các nguyên bào nuôi và mô nguyên bào nuôi tăng sinh.
Hình ảnh đại thể của chửa trứng là nhau thai bị thoái hóa thành các túi nước nhỏ hình chùm nho. Hình ảnh vi thể dưới kính hiển vi là các túi nước được bọc bởi các nguyên bào nuôi tăng sinh. Chửa trứng có thể không chứa phôi thai, gọi là chửa trứng toàn phần (complete mole). Phôi cùng tồn tại với mô nhau thoái hóa nước được gọi là chửa trứng bán phần (partial mole).
Chửa trứng toàn phần có nhiều khuynh hướng diễn biến ác tính hơn chửa trứng bán phần.
Ngoài ra còn có chửa trứng xâm lấn, đây là tình trạng các tổ chức nguyên bào nuôi tăng sinh xâm lấn tại chỗ, tức xâm nhập vào thành cơ tử cung, gây ra các biến chứng đặc trưng của sự xâm nhập nguyên bào nuôi là vỡ và chảy máu. Tỷ lệ chửa trứng diễn biến thành thai trứng xâm lấn là khoảng 25% trường hợp.
U nguyên bào nuôi (u nguyên bào nuôi ở vị trí bám rau, u nguyên bào nuôi dạng biểu mô). U nguyên bào nuôi tại vị trí rau là các tế bào nuôi trung gian tồn tại sau khi kết thúc thai kỳ. Không phải u nguyên bào nuôi nào cũng có nguồn gốc từ chửa trứng, nó có thể xuất hiện sau khi sinh thai sống thông thường hoặc thai ngừng phát triển. Đa số là lành tính nhưng một số trường hợp có thể biến đổi thành ác tính và di căn.
3. Chẩn đoán và điều trị bệnh nguyên bào nuôi trong thai kỳ
Chẩn đoán chửa trứng dựa vào siêu âm và theo dõi nồng độ beta hCG trong máu. Chẩn đoán xác định bệnh nguyên bào nuôi khi lấy mẫu làm giải phẫu bệnh. Điều trị chửa trứng bằng hút dưới hướng dẫn của siêu âm ngay sau khi có chẩn đoán xác định, có thể xem xét cắt tử cung nếu không còn nhu cầu sinh con. Sử dụng thuốc, hóa trị, xạ trị, phẫu thuật,... khi xác định bệnh lý nguyên bào nuôi theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.
Sau hút nạo thai trứng, hơn 80% bệnh nhân sẽ trở về bình thường, 15% diễn biến thành thai trứng xâm lấn và có khoảng 5% sẽ diễn biến thành ung thư nguyên bào nuôi.
Theo dõi nồng độ hCG trước, trong và sau khi hút thai trứng để chẩn đoán sớm chửa trứng xâm lấn, các bệnh lý u nguyên bào nuôi.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.