Chăm sóc trẻ em bị chấn thương sọ não

Chấn thương sọ não (TBI) ở trẻ em có thể gây tàn khốc, trong trường hợp xấu nhất là tử vong. Ở những bệnh nhân sống sót, TBI có thể gây ra một loạt các vấn đề. Một số trong số này là những khiếm khuyết tương đối nhỏ có thể tự giải quyết hoặc có thể được quản lý bằng các tín hiệu và thiết bị thích ứng. Nhưng trong nhiều trường hợp, TBIs dẫn đến tàn tật và tàn tật suốt đời về thể chất, cảm xúc, nhận thức và xã hội khiến bệnh nhân hoàn toàn phụ thuộc và cần được đưa vào các cơ sở chăm sóc dài hạn. Hơn nữa, hậu quả của bệnh TBI nghiêm trọng có thể không chỉ đến gia đình và bạn bè của bệnh nhân mà còn cho toàn bộ cộng đồng.

1. Chấn thương sọ não ở trẻ em được hiểu như thế nào

Từ năm tuổi đến tuổi trưởng thành, chấn thương là nguyên nhân tử vong hàng đầu, và nhiều chấn thương liên quan đến chấn thương sọ não. May mắn thay, phần lớn các ca chấn thương sọ não là nhẹ nhưng tuy nhiên, một số trẻ sẽ bị chấn thương sọ não nặng. Chấn thương sọ não nặng là tình trạng chấn thương sọ não nặng đến mức khiến người bệnh bị suy giảm chức năng não ngay sau chấn thương.

Khi xác định chấn thương sọ não nặng, các bác sĩ lâm sàng di chuyển nhanh chóng để đảm bảo bệnh nhân thở được và đủ máu lên não. Các bước này được thực hiện vì nguy cơ chính của chấn thương sọ não là não sẽ không nhận đủ máu đủ oxy, có thể dẫn đến tổn thương não thêm. Điều này thường bao gồm việc đặt ống thở. Khi bệnh nhân đã ổn định, các bước tiếp theo là xác định loại chấn thương não đã xảy ra. Chụp hình nên được thực hiện để kiểm tra hộp sọ, cột sống, não và tủy sống.

Thông thường, trẻ em bị chấn thương sọ não sẽ cần đến máy đo áp lực não. Các màn hình này được đặt bằng cách khoan một lỗ nhỏ trên hộp sọ và đưa màn hình vào. Một loại màn hình là màn hình trong nhu mô là một dây kim loại được đưa vào mô não. Loại chính khác là dẫn lưu não thất ngoài; đây là một ống silicone mềm được đưa vào não thất và được sử dụng để theo dõi áp suất và hạ áp bằng cách dẫn lưu dịch não tủy.

Đôi khi bệnh nhân sẽ bị chấn thương sọ não làm hình thành cục máu đông, gây áp lực lên não. Những bệnh nhân này có thể cần một cuộc phẫu thuật gọi là mở sọ để loại bỏ cục máu đông và giảm áp lực não. Đôi khi, não bị tổn thương nghiêm trọng đến mức sưng to. Điều này có thể yêu cầu bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ một phần hộp sọ để não có thêm chỗ để sưng lên. Loại phẫu thuật này được gọi là phẫu thuật cắt bỏ sọ.

Những trẻ bị chấn thương sọ não nặng sẽ phải nhập viện chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ em (ICU) để theo dõi và giám sát chặt chẽ. Một khi bệnh nhân đủ sức khỏe để rời khỏi ICU, họ thường sẽ được chuyển đến một bệnh viện chuyên chăm sóc trẻ em bị bệnh chấn thương sọ não, nơi bệnh nhân sẽ được trị liệu cường độ cao hơn (bao gồm thể chất, nghề nghiệp, lời nói, âm nhạc, giải trí và xoa bóp. liệu pháp). Đồng thời, nghỉ ngơi nhận thức, hoặc nghỉ ngơi của não, được sử dụng để cho phép quá trình chữa lành não tự nhiên xảy ra.

Không hiếm trường hợp bệnh nhân chấn thương sọ não nặng phải điều trị nội trú phục hồi chức năng trước khi về nhà. Điều này có thể được thực hiện tại bệnh viện, vì vậy bác sĩ giải phẫu thần kinh có thể tiếp tục theo dõi sự tiến triển của con bạn. Sau khi về nhà, hầu hết bệnh nhân sẽ vẫn yêu cầu phục hồi chức năng ngoại trú để tối đa hóa khả năng hồi phục của họ, và bác sĩ giải phẫu thần kinh và phục hồi chức năng sẽ tiếp tục khám bệnh ngoại trú cho con bạn.

Mặc dù chấn thương sọ não nặng chắc chắn có thể dẫn đến tàn tật vĩnh viễn, nhưng với thời gian và sự phục hồi chức năng, nhiều bệnh nhân đã hồi phục đáng kể.

2. Nguyên nhân chấn thương sọ não ở trẻ em

Chấn thương sọ não thường là do một cú đánh hoặc chấn thương khác ở đầu hoặc cơ thể. Mức độ thiệt hại có thể phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm bản chất của chấn thương và lực tác động.

Các sự kiện phổ biến gây chấn thương sọ não bao gồm:

  • Ngã: Ngã từ trên giường hoặc trên thang, xuống cầu thang, trong bồn tắm và các kiểu ngã khác đặc biệt là ở người lớn tuổi và trẻ nhỏ.
  • Các va chạm liên quan đến phương tiện: Các vụ va chạm liên quan đến ô tô, xe máy hoặc xe đạp và người đi bộ liên quan đến các vụ tai nạn này là nguyên nhân phổ biến của chấn thương sọ não.
  • Bạo lực: Các vết thương do súng đạn, bạo lực gia đình, lạm dụng trẻ em và các vụ hành hung khác là những nguyên nhân phổ biến. Hội chứng em bé bị lắc là một chấn thương sọ não ở trẻ sơ sinh do rung lắc dữ dội.
  • Các chấn thương trong thể thao: Chấn thương sọ não có thể do chấn thương từ một số môn thể thao, bao gồm bóng đá, quyền anh, bóng đá, bóng chày, bóng chày, trượt ván. Những điều này đặc biệt phổ biến ở thanh niên.
  • Các vụ nổ do nổ và các chấn thương chiến đấu khác: Vụ nổ là nguyên nhân phổ biến gây chấn thương sọ não ở quân nhân tại ngũ. Mặc dù thiệt hại xảy ra như thế nào vẫn chưa được hiểu rõ, nhiều nhà nghiên cứu tin rằng sóng áp lực đi qua não làm gián đoạn đáng kể chức năng của não.
  • Chấn thương sọ não cũng là hậu quả của các vết thương xuyên thấu, các mảnh đạn hoặc mảnh vỡ đập mạnh vào đầu, ngã hoặc va chạm cơ thể với các vật sau một vụ nổ.
chấn thương sọ não ở trẻ em
Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra chấn thương sọ não ở trẻ em

3. Kế hoạch chăm sóc bệnh nhân chấn thương sọ não

Một nhóm chăm sóc sức khỏe phối hợp, đa ngành nên được thành lập tại thời điểm bệnh nhân nhập viện và được thực hiện trong suốt thời gian nằm viện. Nó phải bao gồm một hoặc nhiều bác sĩ (chẳng hạn như bác sĩ phẫu thuật chấn thương, bác sĩ cường cường và bác sĩ phẫu thuật thần kinh), y tá, bác sĩ trị liệu hô hấp, dược sĩ, bác sĩ dinh dưỡng, bác sĩ vật lý trị liệu, bác sĩ trị liệu nghề nghiệp, bác sĩ ngôn ngữ nói, bác sĩ vật lý, quản lý trường hợp, nhân viên xã hội và giáo sĩ. Gia đình bệnh nhân cũng nên tham gia.

3.1. Quản lý huyết áp của trẻ em

Mong đợi một ống thông động mạch được đưa vào, để theo dõi huyết áp và cho phép lấy mẫu máu thường xuyên. Trong giai đoạn cấp tính sau chấn thương, các hướng dẫn của BTF nêu rõ rằng nên tránh hạ huyết áp nếu nó xảy ra tình trạng thể tích của bệnh nhân nên được đánh giá trước tiên và tình trạng hạ huyết áp phải được điều chỉnh nhanh chóng.

Một ống thông tiểu được đưa vào để đánh giá sự đầy đủ của tưới máu thận. Thận cần 20% đến 25% cung lượng tim; thông thường, đây là cơ quan đầu tiên cho thấy ảnh hưởng của suy giảm tưới máu hoặc thể tích nội mạch.

Thông thường, ít nhất một trong những vị trí này dành cho catheter tĩnh mạch trung tâm (CVC), cho phép truyền dịch và thuốc cũng như theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm để đánh giá tình trạng thể tích. Nếu tình trạng thể tích không đủ, bệnh nhân nên được bổ sung I.V. chất lỏng. Đối với tình trạng hạ huyết áp kéo dài, nên bắt đầu truyền liên tục thuốc hoạt mạch (như dopamine hoặc norepinephrine) sau khi đã khôi phục đủ thể tích nội mạch.

Khi tình trạng thể tích và huyết áp của bệnh nhân ổn định và tăng huyết áp nội sọ giải quyết, nhu cầu về quản lý thể tích tích cực và các thuốc vận mạch giảm; dần dần, những can thiệp này bị loại bỏ. Để giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng máu, các thiết bị mạch máu xâm lấn (như CVC và đường động mạch) nên được loại bỏ ngay sau khi bệnh nhân ổn định.

3.2. Oxy hóa não và mô

Cần tránh các giá trị độ bão hòa oxy ngoại vi thấp hoặc các giá trị oxy máu động mạch thấp (thể hiện qua xét nghiệm khí máu động mạch). Duy trì oxy mô não đầy đủ dường như cải thiện kết quả của bệnh nhân. Tuy nhiên, nồng độ oxy toàn thân không phải lúc nào cũng đại diện chính xác mức oxy của não; để đánh giá trực tiếp mức độ này, một ống thông đặc biệt có thể được đưa vào não hoặc tĩnh mạch cảnh. Nếu sử dụng một thiết bị như vậy, việc cung cấp oxy có thể được điều chỉnh cho phù hợp.

Ngoài ra, nhiều bệnh nhân TBI cần thở máy kéo dài và có thể được hưởng lợi từ phẫu thuật mở khí quản. Cắt khí quản giúp giảm nguy cơ viêm phổi liên quan đến máy thở (VAP), cũng như hút dịch tiết phía trên băng quấn mở khí quản, duy trì đầu giường ở 30 độ và thực hiện chăm sóc răng miệng tốt sau mỗi 4 giờ.

3.3. Thuốc gây mê, an thần và giảm đau

Thuốc gây mê tác dụng ngắn và thuốc giảm đau an thần, chẳng hạn như propofol và fentanyl, thường được đưa ra. Khi giảm liều, bệnh nhân có thể được đánh thức nhanh chóng, cho phép đánh giá tình trạng thần kinh không bị nhiễm độc về mặt thần kinh. Tuy nhiên, hãy thận trọng khi giải thích đánh giá “đánh thức” như vậy cho các thành viên trong gia đình; thông báo cho họ rằng bệnh nhân không thực sự tỉnh dậy và trở lại tình trạng trước chấn thương.

Khi bệnh nhân cải thiện, liều lượng được giảm dần. Bệnh nhân phải được theo dõi về cơn đau; nếu cần, nên xem xét giảm đau bằng đường ruột để kiểm soát cơn đau mà không gây ra những thay đổi tình trạng thần kinh đáng kể.

Pentobarbital có thể được sử dụng để kiểm soát ICP tăng lên ở những bệnh nhân không đáp ứng với các liệu pháp đầu tay. Được gọi là hôn mê pentobarbital, phương pháp này giảm thiểu hoạt động điện của não trong vài ngày. Cơ chế chính xác của hôn mê pentobarbital vẫn chưa được biết.

3.4. Quản lý nhiệt độ

Não bị tổn thương dễ bị tăng nhiệt độ hơn, vì vậy bệnh nhân nên được giữ ấm thường 35 ° đến 37 ° C để giảm chuyển hóa não và thúc đẩy tác dụng chống viêm. Có thể sử dụng nước làm mát hoặc dung dịch muối lưu thông qua màng bọc bên ngoài cơ thể hoặc ống thông làm mát nội mạch đặc biệt để duy trì nhiệt độ mong muốn. Mặc dù có thể sử dụng túi đá nhưng chúng tốn nhiều công sức và có thể dẫn đến việc làm mát không ổn định.

Khi tăng huyết áp nội sọ giải quyết, nhiệt độ của bệnh nhân có thể được phép về bình thường.

3.5. Dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch

Bệnh nhân TBI có nhiều nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch (VTE). Trong một số trường hợp, có thể sử dụng tất chống tắc mạch hoặc thiết bị nén khí nén. Khi nguy cơ xuất huyết qua đi, có thể tiêm heparin trọng lượng phân tử thấp. Ngoài ra, các bộ lọc khoang tĩnh mạch dưới có thể được đặt qua đường tĩnh mạch. Các nghiên cứu siêu âm song song tầm soát của chân có thể được thực hiện để giúp xác định VTE. Nếu xảy ra VTE, hãy thực hiện các biện pháp can thiệp thích hợp.

3.6. Dự phòng co giật

TBI có thể làm tăng nguy cơ co giật không động kinh ở một số ít bệnh nhân. Co giật ngay sau chấn thương hoặc phát sinh trong giai đoạn đầu sau chấn thương có lẽ là phản ứng với chấn thương ban đầu; những phát sinh hơn 2 tuần sau chấn thương được cho là xuất phát từ những thay đổi vĩnh viễn trong cấu trúc não. Mặc dù nguy cơ co giật thấp, nhưng các cơn co giật làm tăng hoạt động trao đổi chất và nhu cầu oxy, điều này có thể làm tổn thương thêm phần não bị tổn thương.

Không nên dự phòng co giật định kỳ sau 1 tuần sau khi bị TBI. Tuy nhiên, nếu cần, có thể cho dùng phenytoin hoặc valproate.

chấn thương sọ não
Chấn thương sọ não ở trẻ em cần được dự phòng thuốc chống co giật

3.7. Dinh dưỡng

Ban đầu, một ống thông mũi-dạ dày hoặc dạ dày được đưa vào để giải nén dạ dày và giảm nguy cơ hít phải. Thông thường, tránh đường mũi vì nó có thể cản trở sự thoát dịch của xoang, dẫn đến viêm xoang hoặc VAP.

3.8. Đảm bảo an toàn cho bệnh nhân

Nếu bệnh nhân trở nên bồn chồn hoặc kích động, hãy điều tra nguyên nhân và thực hiện các biện pháp can thiệp thích hợp. Các nguyên nhân bao gồm xuất hiện do hôn mê, ngừng thuốc giảm đau hoặc thuốc an thần, kích thích môi trường quá mức và khó chịu do đau, táo bón, tiểu tiện không tự chủ, cảm thấy quá nóng hoặc quá lạnh, khăn trải giường nhăn nheo, vị trí cơ thể hoặc các điểm áp lực do nẹp gây ra.

Giải thích tất cả các biện pháp chăm sóc ngay cả khi bạn không chắc bệnh nhân hiểu những gì đang được nói. Bảo mật tất cả các thiết bị và dụng cụ và để những thiết bị này ngoài tầm nhìn và tầm với của bệnh nhân; ngay cả một thiết bị tưởng như đơn giản cũng có thể gây nguy hiểm cho bệnh nhân đang bối rối hoặc kích động. Sử dụng giọng nói nhẹ nhàng và nói chậm rãi để bệnh nhân có thời gian xử lý thông tin. Hãy nhớ rằng giọng nói quen thuộc của một thành viên trong gia đình hoặc bạn bè có thể giúp bệnh nhân bình tĩnh và giảm lo lắng. Nếu cần các biện pháp hạn chế, chúng nên được áp dụng trong thời gian ngắn nhất có thể; trong một số trường hợp, giường an toàn có lưới có thể được xem xét.

3.9. Phục hồi chức năng và tham vấn

Sử dụng nẹp theo chỉ định để duy trì bàn tay và bàn chân của bệnh nhân ở các vị trí chức năng và giảm nguy cơ co cứng. Càng sớm càng tốt, hãy bắt đầu các bài tập thể dục và vận động rời khỏi giường càng sớm càng tốt.

Trong thời gian đầu sau chấn thương, hãy tư vấn các dịch vụ như vật lý trị liệu, liệu pháp vận động, bệnh lý ngôn ngữ nói và vật lý trị liệu nếu cần.

4. Phòng ngừa chấn thương sọ não cho trẻ em

4.1. Làm theo những lời khuyên sau để giảm nguy cơ chấn thương não:

  • Dây an toàn và túi khí: Luôn thắt dây an toàn trên xe có động cơ. Trẻ nhỏ phải luôn ngồi ở ghế sau của ô tô được bảo đảm bằng ghế an toàn dành cho trẻ em hoặc ghế nâng phù hợp với kích thước và trọng lượng của trẻ.
  • Mũ bảo hiểm: Đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp, ván trượt, mô tô, xe trượt tuyết hoặc xe chạy trên mọi địa hình. Đồng thời đeo bảo vệ đầu thích hợp khi chơi bóng chày hoặc tiếp xúc với các môn thể thao, trượt tuyết, trượt băng, trượt tuyết hoặc cưỡi ngựa.

4.2. Phòng tránh té ngã

Những lời khuyên sau đây có thể giúp người lớn tuổi tránh bị ngã khi ở trong nhà:

  • Lắp đặt tay vịn trong phòng tắm
  • Đặt một tấm thảm chống trượt trong bồn tắm hoặc vòi hoa sen
  • Xóa thảm khu vực
  • Lắp tay vịn hai bên cầu thang
  • Cải thiện ánh sáng trong nhà, đặc biệt là xung quanh cầu thang
  • Giữ cho cầu thang và sàn nhà không bị lộn xộn
  • Kiểm tra thị lực thường xuyên
  • Tập thể dục thường xuyên
chấn thương sọ não ở trẻ em
Lắp tay vịn hai bên cầu thang giúp phòng tránh té ngã gây chấn thương sọ não ở trẻ em

4.3. Phòng ngừa chấn thương đầu ở trẻ em

  • Những lời khuyên sau đây có thể giúp trẻ tránh bị thương ở đầu:
  • Lắp cổng an toàn ở đầu cầu thang
  • Giữ cho cầu thang không bị lộn xộn
  • Cài đặt các tấm chắn cửa sổ để ngăn ngừa ngã
  • Đặt một tấm thảm chống trượt trong bồn tắm hoặc vòi hoa sen
  • Sử dụng các sân chơi có vật liệu hấp thụ sốc trên mặt đất
  • Đảm bảo khu vực thảm được an toàn
  • Không để trẻ em chơi trên các lối thoát hiểm hoặc ban công có lửa

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

416 lượt đọc

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan