Sự thay đổi của thể tích nước ối trong suốt thai kỳ

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ Nguyễn Anh Tú - Bác sĩ Siêu âm sản – Chẩn đoán trước sinh – Khoa Sản - Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng.

Nước ối có chức năng nuôi dưỡng và bảo vệ thai nhi trong suốt thai kỳ. Thể tích nước ối thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của thai nhi. Thông qua việc khảo sát về thể tích của nước ối, bác sĩ có thể đánh giá được tình trạng sức khỏe và một số bệnh lý của thai nhi.

1. Vai trò của nước ối đối với thai kỳ

Nước ối là môi trường giàu chất dinh dưỡng, có chức năng nuôi dưỡng phôi thai, ngoài ra nước ối còn giúp bảo vệ, che chở cho thai nhi tránh những va chạm, sang chấn, bảo đảm môi trường vô trùng cho bé trong bọc ối. Nước ối tạo môi trường cho thai phát triển hài hòa và bình chỉnh về ngôi thai trong ống sinh dục của mẹ trong những tháng cuối thai kỳ.

2. Sự thay đổi của nước ối trong suốt thai kỳ

Trong giai đoạn đầu, nước ối được hình thành do sự thẩm thấu của huyết thanh mẹ qua màng ối, hoặc thẩm thấu của huyết thanh con qua da thai nhi. Từ lúc thai nhi được 10 - 12 tuần tuổi, nước ối được hình thành do nước tiểu tiết ra từ thận và dịch từ phổi của thai nhi. Lượng nước ối tuần 16-32 đạt từ 250 - 800ml, rồi tăng lên 1.000ml và duy trì cho đến khi thai nhi 36 tuần tuổi (bác sĩ có thể tính lượng nước ối qua siêu âm). Từ thời điểm này đến lúc sinh, lượng nước ối sẽ giảm dần đi, và còn lại độ chừng 500ml (vào lúc sinh). Vì vậy, nếu tuổi thai càng lớn, thì chỉ số nước ối càng ít đi.


Nước ối có chức năng nuôi dưỡng phôi thai, bảo đảm môi trường vô trùng cho bé trong bọc ối.
Nước ối có chức năng nuôi dưỡng phôi thai, bảo đảm môi trường vô trùng cho bé trong bọc ối.

3. Những bất thường có thể gặp về thể tích nước ối

Lượng nước ối tăng dần từ 250 đến 800ml trong khoảng 16 - 32 tuần, sau đó ổn định ở mức này đến 36 tuần rồi giảm dần còn khoảng 500 ml khi đến ngày sanh. Trên thực tế, người ta dùng siêu âm để đánh giá ối còn ít hay nhiều; và có 2 cách đo: hoặc đo trực tiếp một khoảng có nước ối bất kỳ (đo đường kính lớn nhất của khoang hay đo thể tích của khoang) hoặc chia buồng từ cung thành 4 phần và đánh giá khoang nước ối ở cả 4 phần, sau đó cộng dồn lại để ra chỉ số nước ối (AFI - amniotic fluid index). Đánh giá lâm sàng dựa vào sờ nắn bụng, thấy bề cao tử cung không tương ứng với tuổi thai (nhỏ hơn khi ít ối hay nhiều hơn khi nhiều ối), thấy bụng chắc hay lỏng lẻo, tuy nhiên các dấu hiệu này cũng có thể do nguyên nhân khác như con to hay con suy dinh dưỡng, đa thai, người gầy quá hay dư cân quá. Do đó, siêu âm vẫn là cách đánh giá chính xác nhất.

Những bất thường có thể gặp về thể tích ối như đa ối, thiểu ối, vô ối.

3.1 Đa ối

Đa ối (Polyhydramnios) là hiện tượng dư thừa nước ối. Mẹ bầu được chẩn đoán đa ối khi chỉ số nước ối (AFI) qua siêu âm quá 25 cm. Đa ối thường gặp trong đa thai và một số bất thường về hệ thần kinh trung ương của thai nhi như não úng thủy, thai vô sọ, thoát vị não màng não, cột sống chẻ đôi....

Khoảng 2/3 trường hợp đa ối là vô căn. Các nguyên nhân gây đa ối bao gồm:

  • Người mẹ mắc bệnh đái tháo đường: Tình trạng đa ối được phát hiện trong 10% thai phụ mắc chứng đái tháo đường, nhất là trong quý 3 của thai kỳ. Khi bạn bị tiểu đường và lượng đường trong máu của bạn không được kiểm soát tốt, bé có thể sinh ra nhiều nước tiểu hơn. Do vậy, giảm lượng đường trong máu của bạn sẽ giảm được lượng nước ối.
  • Người mẹ mang song thai hoặc đa thai: Tình trạng đa ối có thể xảy ra do sự trao đổi chất giữa hai bào thai không được cân bằng (một bào thai có ít nước ối trong khi bào thai kia có nhiều nước ối hơn).
  • Nguyên nhân do ở bào thai: Bé sẽ ngừng quá trình uống nước ối - đi tiểu, dẫn tới hiện tượng thừa nước ối. Tình trạng này gặp khi dị tật ở bào thai như hở hàm ếch, hẹp môn vị...
  • Các yếu tố khác có thể gặp làm gia tăng tình trạng đa ối là: Thiếu máu ở bào thai; nhiễm trùng bào thai, bất đồng nhóm máu giữa mẹ và bé...

Ảnh hưởng của đa ối lên sự phát triển và sức khỏe thai nhi: đa ối xuất hiện trong khoảng 1% thai kỳ, đa ối nếu do nguyên nhân dị tật hay dị dạng thì tiên lượng rất xấu. Đa ối làm cho thai dễ di động trong tử cung nên có thể khiến dây rốn quấn cổ, ngôi bất thường. Đa ối làm bụng mẹ căng to, mẹ bầu khó thở, dễ cò cơn co tử cung và chuyển dạ sinh non làm tăng tỷ lệ tử vong khi sinh của bé. Khi chuyển dạ sinh, đa ối có thể gây ra chuyển dạ kéo dài gây suy thai, mẹ bị đờ tử cung gây băng huyết sau sinh. Bên cạnh đó, đa ối có thể gây vỡ ối đột ngột và tai biến của vỡ ối đột ngột là: nhau bong non, sa dây rốn, ngôi bất thường và thuyên tắc ối. Những điều này làm đe dọa tính mạng của cả hai mẹ con. Tất nhiên những rủi ro này còn thay đổi tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng và nguyên nhân gây ra đa ối.


Đa ối là tình trạng dư thừa nước ối
Đa ối là tình trạng dư thừa nước ối

Trong hầu hết các trường hợp dư ối nhẹ thì không có gì đáng lo ngại. Bác sĩ sẽ dặn bạn thăm khám thường xuyên và cho bạn uống một số thuốc lợi tiểu. Nếu có thể xác định được nguyên nhân do nhiễm khuẩn hoàn toàn có thể điều trị bằng kháng sinh an toàn cho thai nhi.

Đối với tình trạng đa ối nặng, có dấu hiệu báo vấn đề liên quan đến thai nhi cần phải theo dõi. Bác sĩ sẽ theo dõi kỹ lượng nước ối của bạn, nếu tăng quá nhanh bạn có thể phải phẫu thuật, chọc ối để rút bớt nước ối.

Ngoài ra, sản phụ cần thường xuyên thăm khám để theo dõi, thậm chí có thể phải nằm viện và can thiệp ngay khi cần thiết khi xuất hiện các triệu chứng rầm rộ như khó thở, tức ngực nhiều; bụng to lên nhanh và rõ rệt, đau tức đột ngột.

3.2 Thiểu ối, vô ối

Thiểu ối tình trạng nước ối ít hơn mức bình thường, khi chỉ số ối (AFI) nhỏ hơn 5cm và màng ối còn nguyên vẹn, thường gặp trong bất thường hệ tiết niệu và hệ tiêu hóa thai nhi. Vô ối được xác định khi chỉ số ối nhỏ hơn 3cm. Thiểu ối còn gặp trong tình trạng mẹ suy dinh dưỡng, thai suy dinh dưỡng, thai quá ngày sinh, vỡ ối non, vỡ ối sớm....

Ảnh hưởng của thiểu ối lên sự phát triển của thai nhi: Tùy vào tình trạng, nguyên nhân và độ tuổi thai mà việc thiếu nước ối sẽ ảnh hưởng ít hay nhiều.

Trường hợp mẹ bầu bị thiếu ối trong 3 tháng đầu thai kỳ hoặc vài tuần sau đó, thì có khả năng gây sảy thai và thai chết lưu. Đồng thời, việc này cũng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển và chức năng phổi của thai nhi.

Trường hợp mẹ bị thiếu ối trong 3 tháng cuối thai kỳ, đa số không gây những biến chứng nguy hiểm. Bệnh nhân sẽ được theo dõi chặt chẽ sức khỏe của cả hai mẹ con và có thể truyền nước để bổ sung dịch ối cho mẹ bầu. Tuy nhiên, thiểu ối trong giai đoạn này có thể khiến ngôi thai bị ngược vì không đủ lượng nước ối cần thiết để xoay đầu xuống dưới.

Thiếu ối cũng có thể khiến mẹ bị vỡ ối sớm. Nếu vỡ ối gây thiểu ối khi chưa chuyển dạ hoặc khi mới bắt đầu đau bụng sinh sẽ làm nhiễm trùng ối, từ đó làm nhiễm trùng bào thai, nhiễm trùng tử cung... cả mẹ và bé đều nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng. Bác sĩ sẽ xem xét các nguy cơ nhiễm trùng ối và tình trạng của thai nhi để quyết định có nên can thiệp để mẹ sinh sớm hay không.

Bất kỳ sự thay đổi bất thường nào về thể tích nước ối đều có thể ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển của thai nhi, vì vậy khi mang thai, người mẹ cần theo dõi định kỳ để đảm bảo chất lượng nước ối.

Bác sĩ Nguyễn Anh Tú có kinh nghiệm 6 năm về siêu âm sản phụ khoa, đặc biệt được nghiên cứu, đào tạo chuyên sâu về siêu âm thai - chẩn đoán trước sinh. Bác sĩ Tú đã hoàn thành các khóa học về siêu âm - chẩn đoán trước sinh của hiệp hội Y học bào thai Quốc tế FMF; được đào tạo về tư vấn và thực hiện các kĩ thuật can thiệp chẩn đoán trong y học bào thai và tham gia nhiều hội nghị, hội thảo chuyên sâu về Y học bào thai. Hiện đang là bác sĩ tại Khoa Sản phụ khoa Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe