Sử dụng thuốc kháng sinh chống nhiễm trùng vết thương sau mổ

Nhiễm trùng vết mổ là một trong những nhiễm trùng bệnh viện thường gặp. Nhiễm trùng vết mổ khiến kéo dài thời gian và bệnh tật cho người bệnh, thông thường phải ở lại bệnh viện từ 1 tuần đến 10 ngày để điều trị. Không những thế còn gây tốn kém về mặt kinh tế cho người bệnh.

1. Chẩn đoán nhiễm trùng vết mổ

Nhiễm trùng vết mổ bao gồm 3 mức độ: nông, sâu và cơ quan.

1.1. Nhiễm trùng vết mổ nông

Người bị nhiễm trùng vết mổ nông cần thỏa mãn các điều kiện sau:

  • Nhiễm trùng xảy ra trong vòng 30 ngày kể từ khi phẫu thuật.
  • Nhiễm trùng chỉ xuất hiện tại vùng da hoặc vùng dưới da tại đường mổ.
  • Có ít nhất một trong số các triệu chứng sau
  • Có mủ chảy ra từ vết mổ nông.
  • Phân lập được vi trùng từ cấy dịch hay mô được lấy vô trùng từ vị trí mổ
  • Có một trong những triệu chứng: đau, sưng nóng, cần mở bung vết mổ
  • Bác sĩ chẩn đoán nhiễm trùng vết mổ nông

Nhiễm trùng vết mổ nông xảy ra tại vị trí vùng dưới da ở đường mổ
Nhiễm trùng vết mổ nông xảy ra tại vị trí vùng dưới da ở đường mổ

1.2. Nhiễm trùng vết mổ sâu

Nhiễm trùng vết mổ sâu cần thỏa mãn những điều kiện sau:

  • Nhiễm trùng xảy ra trong vòng 30 ngày kể từ khi phẫu thuật hoặc trong vòng 1 năm đối với đặt implant.
  • Vị trí nhiễm trùng ở mô mềm sâu của đường mổ.
  • Có ít nhất một trong những triệu chứng sau đây:
  • Có mủ chảy ra từ vết mổ sâu nhưng không từ cơ quan hay khoang nơi phẫu thuật.
  • Vết thương hở da sâu tự nhiên.
  • Kỹ thuật viên mở vết mổ khi bệnh nhân đang có những triệu chứng như: sốt 38 độ, sưng, đau, trừ trường hợp cấy ghép từ vết mổ âm tính.
  • Bác sĩ chẩn đoán nhiễm trùng vết mổ sâu.

1.3. Nhiễm trùng vết mổ tại cơ quan hoặc khoang phẫu thuật

Cần phải thỏa mãn những điều kiện sau

  • Nhiễm trùng xảy ra trong vòng 30 ngày kể từ khi phẫu thuật hoặc trong vòng 1 năm đối với đặt implant.
  • Xảy ra ở bất kỳ nội tạng ngoại trừ da, cơ, gân đã xử lý trong quá trình phẫu thuật.
  • Có ít nhất một trong những trường hợp sau đây:

+Có hiện tượng chảy mủ từ dẫn lưu của nội tạng.

+Phân lập vi khuẩn được cấy từ dịch mô hoặc nhiễm trùng qua phẫu thuật lại, chụp X quang hoặc giải phẫu bệnh.

2. Các biện pháp dự phòng và kiểm soát nhiễm trùng vết mổ

2.1. Các biện pháp chung

  • Tắm rửa sạch sẽ khử khuẩn cho người bệnh trước khi thực hiện phẫu thuật.
  • Khử trùng tay ngoại khoa bằng dung dịch rửa tay có chứa cồn.
  • Áp dụng chính xác liệu pháp sử dụng kháng sinh dự phòng.
  • Tuân thủ chặt chẽ quy trình vô khuẩn bên trong phòng phẫu thuật, các dụng cụ thực hiện phẫu thuật.
  • Kiểm tra thường xuyên đường huyết và ủ ấm bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật.

2.2. Người bệnh cần làm gì trước khi thực hiện phẫu thuật

  • Thực hiện xét nghiệm đường máu trước mọi ca phẫu thuật.
  • Điều trị mọi ổ nhiễm trùng ở ngoài hoặc tại vị trí phẫu thuật trước khi mổ.
  • Bệnh nhân phải tắm bằng xà phòng kháng khuẩn, dung dịch kháng khuẩn có chứa iodine hoặc chlorhexidine vào trước đêm phẫu thuật.

2.3. Sử dụng kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật

Sử dụng kháng sinh dự phòng khi có chỉ định và chọn lọc nó dựa vào hiệu quả kháng lại những bệnh nguyên thường gặp. Nhất là gây nhiễm trùng vết mổ theo từng phẫu thuật đặc biệt và dựa vào các khuyến cáo đã ban hành.Cần sử dụng kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật khi xem xét là phẫu thuật sạch hay sạch - nhiễm. Nếu dùng kháng sinh dự phòng thì không được sử dụng kéo dài sau phẫu thuật, còn nếu dùng với mục đích điều trị thì cần tiếp tục.


Thuốc kháng sinh được sử dụng trong dự phòng nhiễm khuẩn vết mổ
Thuốc kháng sinh được sử dụng trong dự phòng nhiễm khuẩn vết mổ

Kháng sinh dự phòng cần được cho trước lúc rạch da tức là khi vi khuẩn được đưa vào nơi mổ. Định thời gian liều khởi đầu của kháng sinh dự phòng phải thỏa mãn nồng độ diệt khuẩn của thuốc được xác lập ngay khi đường rạch được tiến hành. Để chắc chắn đủ nồng độ kháng sinh ở mô, khoảng thời gian hiệu quả nhất là trong vòng hai giờ tốt nhất trong vòng 30 phút trước lần rạch đầu tiên.

Như vậy kháng sinh dự phòng phải được nhóm gây mê cho trong khi chờ các phẫu thuật viên và chuẩn bị vùng da phẫu thuật. Tuy nhiên, bằng kháng sinh này có thể sẽ được điều chỉnh lại theo tình hình thực tế tại nước ta. Không khuyến cáo sử dụng Vancomycin làm kháng sinh dự phòng.

3. Chăm sóc vết mổ sau phẫu thuật

  • Băng bó vết thương sau mổ bằng gạc vô trùng từ 24 đến 48 tiếng, chỉ thay trong trường hợp băng có thấm máu hoặc bị nhiễm bẩn khi mở ra kiểm tra vết mổ.
  • Hướng dẫn cụ thể cho người nhà và bệnh nhân cách theo dõi và phát hiện những triệu chứng bất thường.
  • Nếu bệnh nhân có bất kỳ biểu hiện bất thường nào cần gọi ngay cho bác sĩ để được thăm khám và điều trị kịp thời.

Cần phải có những biện pháp dự phòng để tình trạng nhiễm trùng vết mổ không xảy ra dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực cho bệnh nhân. Bác sĩ và người nhà cần phải theo dõi tình trạng của bệnh nhân sau mổ để có biện pháp xử lý kịp thời.

Khách hàng có thể trực tiếp đến hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để thăm khám hoặc liên hệ hotline tại đây để được hỗ trợ.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe