Lao là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đòi hỏi cần phải điều trị tích cực theo đúng phác bộ của Bộ Y tế. Tuy nhiên, quá trình sử dụng các thuốc điều trị lao lại gây ra rất nhiều tác dụng phụ và một trong số là tình trạng uống thuốc lao bị đau xương khớp.
1. Tổng quan về các thuốc điều trị lao
Lao là bệnh lý do vi khuẩn gây ra, cụ thể là trực khuẩn lao với đặc điểm rất khó bị tiêu diệt. Trực khuẩn có cấu tạo bao gồm vỏ 3 lớp vỏ dày nên rất khó bị phá hủy, do đó chúng có khả năng năng chống chọi với rất nhiều yếu tố tác động từ bên ngoài, bao gồm cả các dung dịch diệt khuẩn có tính acid hay bazo... Thêm vào đó, nếu tồn tại trong điều kiện thích hợp (đặc biệt là môi trường ẩm thấp) thì trực khuẩn lao có thể tồn tại rất lâu (lên đến 3 - 4 tháng), đặc biệt với điều kiện phòng thí nghiệm lý tưởng thì thời gian sống của chúng có thể lên đến vài năm.
Những đặc điểm trên cho thấy vi khuẩn lao có sức sống vô cùng mãnh liệt, do đó các bác sĩ đánh giá lao là bệnh lý cực kỳ nguy hiểm với con người. Muốn tiêu diệt trực khuẩn lao đòi hỏi phải có các thuốc kháng sinh đặc hiệu với khả năng tiêu diệt đủ mạnh và hiệu quả. Hiện nay, các thuốc kháng lao được phân chia thành 5 nhóm như sau:
- Thuốc uống kháng lao hàng thứ nhất, bao gồm Isoniazid, Rifampicin, Ethambutol và Pyrazinamid;
- Thuốc kháng lao đường tiêm như Streptomycin, Kanamycin, Amikacin và Capreomycin;
- Nhóm Quinolones bao gồm Ofloxacin, Levofloxacin và Moxifloxacin (lưu ý Ciprofloxacin không hiệu quả với vi khuẩn lao);
- Thuốc kháng lao đường uống hàng thứ hai: Nhóm này có tác dụng kìm khuẩn nên chỉ có vai trò thứ yếu trong quá trình điều trị, đồng thời còn có nguy cơ gây ra nhiều tác dụng phụ mắc. Bao gồm Ethionamid, Prothionamide, Cycloserin, Para-amino salixylic...;
- Các thuốc mới trong giai đoạn thử nghiệm chưa được công nhận rộng rãi như Amoxicillin/Clavulanic acid, Azithromycin, Clarithromycin, Linezolid...
Do vi khuẩn lao có sức sống rất cao nên quá trình điều trị đòi hỏi phải sử dụng kết hợp nhiều nhóm thuốc với nhau. Phác đồ điều trị cụ thể chỉ được bác sĩ chuyên khoa Lao chỉ định và tùy thuộc vào nhiều yếu tố như thể bệnh, mức độ nghiêm trọng, bệnh nhân mới điều trị lần đầu hay nhiều lần, lao nguyên phát hay lao tái phát, lao đơn thuần hay phối hợp với bệnh lý khác... Hiện nay, phác đồ điều trị lao phổi của Bộ Y tế Việt Nam thường phối hợp 3 loại thuốc với nhau thì mới mang lại hiệu quả. Tuy nhiên, mỗi loại thuốc lao đều có nguy cơ gây ra tác dụng phụ và do đó việc kết hợp nhiều nhóm thuốc thì nguy cơ xảy ra tác dụng phụ sẽ tăng lên, bao gồm cả mức độ nghiêm trọng và do đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe bệnh nhân vốn đã suy yếu do vi khuẩn lao. Bên cạnh những tác dụng ngoại ý thường gặp là tổn thương gan thận, một trong những tác dụng không mong muốn hay được bệnh nhân than phiền là uống thuốc lao bị đau khớp, và điều này đòi hỏi phải có biện pháp để kiểm soát một cách hiệu quả.
2. Tại sao uống thuốc lao bị đau khớp?
Uống thuốc lao bị đau xương khớp là tác dụng ngoại ý hay được bệnh nhân đề cập. Theo các bác sĩ, tác dụng phụ này xảy ra chủ yếu với Pyrazinamid (thuốc kháng lao đường uống hàng thứ nhất). Pyrazinamid là thuốc kháng lao duy nhất tiêu diệt được trực khuẩn lao tồn tại bên trong tế bào, do đó hoạt chất này có vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết cho hầu hết người bệnh cần điều trị lao.
Mặc dù có tầm quan trọng nhưng Pyrazinamide lại có nguy cơ gây phản ứng phụ khá cao, thường gặp nhất là tình trạng đau khớp (ở các vị trí như khớp vai, đầu gối, bàn tay và ngón tay), chán ăn, buồn nôn, cảm giác nóng bừng, ngứa và nổi mề đay... Ngoài ra, Pyrazinamide còn có nguy cơ gây ra một số tác dụng phụ nghiêm trọng như vàng da, viêm gan và đặc biệt là tăng acid uric máu gây ra cơn Gout cấp tính.
3. Một số tác dụng phụ của thuốc lao khác
Isoniazid là thuốc kháng lao hàng đầu với khả năng tiêu diệt trực khuẩn lao mạnh mẽ khi trực tiếp phá hủy cấu trúc tế bào. Tuy nhiên, tác dụng phụ của thuốc lao này cũng khá nghiêm trọng, bao gồm viêm gan, khởi phát cơn co giật hoặc các triệu chứng tâm thần, mất bạch cầu hạt hay các phản ứng da dạng lupus... Đặc biệt những tác dụng phụ của Isoniazid dễ xảy ra hơn ở bệnh nhân đã có tiền sử viêm gan, suy gan hay suy dinh dưỡng.
Tương tự Isoniazid, Rifampicin là thuốc điều trị lao hàng đầu với khả năng diệt khuẩn mạnh khi ức chế sinh tổng hợp acid nucleic của trực khuẩn lao. Điểm đặc biệt của Rifampicin là có thể tiêu diệt trực khuẩn ở dạng “ngủ” trong tế bào nên giúp chống tái phát bệnh. Tuy nhiên, Rifampicin lại gây nhiều tác dụng phụ nặng nề như khó thở, thiếu máu tán huyết, suy chức năng thận cấp tính, vàng da do viêm gan ứ mật, đặc biệt là ở những bệnh nhân kết hợp với Isoniazid liều cao.
Ethambutol là một thuốc kháng lao hay được bác sĩ chỉ định. Những tác dụng phụ của thuốc lao Ethambutol đã được báo cáo bao gồm viêm dây thần kinh thị giác ảnh hưởng lên 1 mắt hoặc cả 2 mắt (do đó không khuyến cáo sử dụng cho trẻ nhỏ), gây ra các phản ứng da và mô dưới da, viêm dây thần kinh ngoại biên hay viêm thận (tần suất xảy ra thấp hơn).
Các thuốc kháng lao dạng tiêm như Streptomycin, Kanamycin, Amikacin và Capreomycin chỉ có tác dụng diệt trực khuẩn lao bên ngoài tế bào. Những phản ứng phụ hay gặp của nhóm thuốc này bao gồm cảm giác tê bì như kiến bò, giật cơ quanh môi, nôn ói, sốt ban đỏ và nổi mẩn ngứa. Một số tác dụng rất nghiêm trọng đã được báo cáo bao gồm dị ứng, mày đay, sốc phản vệ, phù Quincke, trụy mạch và các dị ứng ngoài da như đỏ da, tróc da hay độc thận (do tích lũy ở tế bào ống thận). Đặc biệt, nhóm thuốc này có khả năng gây tổn thương dây thần kinh số 8, dẫn đến ù tai, chóng mặt, loạng choạng, mất thăng bằng và thậm chí gây điếc (khó phục hồi).
Tác dụng phụ của nhóm Quinolones được ghi nhận ở khoảng 10% trường hợp với các triệu chứng từ nhẹ đến nặng như buồn nôn, nôn ói, tiêu chảy, phản ứng da/mô dưới da và một số dấu hiệu của tăng áp lực nội sọ (bao gồm chóng mặt, đau đầu, ảo giác, co giật). Đặc biệt, tình trạng uống thuốc lao bị đau khớp có thể xảy ra với nhóm Quinolon do ảnh hưởng lên bề mặt sụn khớp, vì vậy không khuyến cáo sử dụng cho người dưới 18 tuổi.
Cycloserin là thuốc kháng lao có thể gây trầm cảm, dẫn đến nảy sinh ý định tự sát nên không khuyến cáo ở bệnh nhân có rối loạn tâm thần.
Ethionamid và Prothionamide là những thuốc lao có thể gây quái thai, độc gan, rối loạn tiêu hóa (như chán ăn, buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng và cảm giác có vị kim loại). Ngoài ra, bệnh nhân đôi khi cảm thấy chóng mặt, đau đầu, mất ngủ, loạn tâm thần, viêm thần kinh ngoại vi với những triệu chứng như dị cảm, run, phát ban, sạm da, suy giáp hay hình thành bướu giáp... khi sử dụng các thuốc lao này.
Para-aminosalicylic là thuốc lao ít được sử dụng do tác dụng phụ gây độc nhiều cơ quan với những biểu hiện như tiêu chảy, nôn ói, đau bụng hay hội chứng kém hấp thu...