Nguyên nhân ung thư cổ tử cung là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm, do đây là căn bệnh nguy hiểm và khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Theo thống kê, ung thư cổ tử cung là loại ung thư thường gặp thứ tư ở nữ giới và trong nửa năm có hơn nửa triệu người mới mắc phải. Chính vì thế, chúng ta cần phải tìm hiểu, ung thư cổ tử cung là gì, nguyên nhân gây ra bệnh là gì và vì sao căn bệnh này nguy hiểm.
Bài viết này được viết dưới sự hướng dẫn chuyên môn của BSCK I Tô Kim Sang - Bác sĩ Nội Ung bướu tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
1. Ung thư cổ tử cung là gì?
Cổ tử cung là một phần của cơ quan sinh dục ở nữ, nối giữa âm đạo và thân tử cung.
Ung thư cổ tử cung là một bệnh lý ác tính của các tế bào tại vùng cổ tử cung. Bệnh thường xuất hiện ở vùng chuyển tiếp giữa tế bào biểu mô gai (biểu mô vảy) ở cổ ngoài và tế bào biểu mô tuyến ở cổ trong. Ung thư xảy ra khi các tế bào phát triển và tăng sinh bất thường, không kiểm soát được, xâm lấn vào các khu vực xung quanh và di căn đến các bộ phận khác trong cơ thể.
Phụ nữ mắc ung thư cổ tử cung thường ở độ tuổi sinh hoạt tình dục (30-45 tuổi). Người dưới 20 tuổi hiếm khi mắc bệnh, trong khi đó, những trường hợp trên 65 tuổi thường phát hiện bệnh muộn do không được tầm soát kỹ lưỡng ở những năm trước đó.
2. Nguyên nhân ung thư cổ tử cung
Nguyên nhân ung thư cổ tử cung phổ biến nhất là nhiễm virus gây u nhú ở người (HPV) nhóm nguy cơ cao.
HPV là một nhóm gồm hơn 200 loại virus, trong đó có một số loại lây truyền qua đường sinh dục. Virus HPV được chia thành hai nhóm: HPV nguy cơ thấp và HPV nguy cơ cao. Có khoảng 16 loại HPV nguy cơ cao, trong đó HPV16 và HPV18 chiếm hơn 70% nguyên nhân ung thư cổ tử cung.
Hầu hết mọi người trong độ tuổi sinh hoạt tình dục đều nhiễm HPV ít nhất một lần trong đời. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp nhiễm HPV đều mắc ung thư cổ tử cung.
Khi HPV xâm nhập cơ thể, hệ miễn dịch sẽ được kích hoạt để chống lại virus, và phần lớn virus HPV sẽ được loại bỏ. Bất kể bệnh nhân nhiễm HPV nhóm nào, bệnh cũng đều có khả năng tự lui hẳn mà không để lại bất kỳ di chứng nào. Hơn 90% HPV sẽ được loại bỏ tự nhiên trong năm đầu tiên và 70% sẽ được loại bỏ trong năm thứ hai.
Tuy nhiên, không phải lúc nào hệ miễn dịch cũng phòng vệ thành công. Một số ít trường hợp HPV có thể tồn tại dai dẳng ở lớp tế bào đáy cổ tử cung, đặc biệt là khi nhiễm virus HPV nhóm nguy cơ cao. Tình trạng nhiễm HPV kéo dài và viêm mãn tính có thể dẫn đến các tổn thương tiền ung thư ở cổ tử cung, như dị sản (phân loại từ nhẹ đến nặng).
Hơn 50% các trường hợp dị sản nhẹ có khả năng tự thoái lui, 10% các trường hợp dị sản vừa có thể tiến triển nặng hơn trong vòng 2-4 năm, và khoảng 50% các trường hợp dị sản nặng có thể phát triển thành ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên, khả năng này ít gặp ở người trẻ tuổi.
Ngoài HPV, một số yếu tố nguy cơ khác có thể tăng khả năng mắc ung thư cổ tử cung:
- Hút thuốc lá: Phụ nữ hút thuốc lá có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung cao gấp đôi so với những người không hút thuốc. Các chất độc hại trong thuốc lá đã được chứng minh là nguyên nhân ung thư cổ tử cung cùng nhiều loại ung thư khác.
- Quan hệ tình dục sớm, người quan hệ tình dục với nhiều người và quan hệ tình dục không an toàn.
- Sinh nhiều con (trên 5 con).
- Sinh con khi còn quá trẻ (dưới 17 tuổi).
- Vệ sinh vùng kín sai cách.
- Viêm cổ tử cung mãn tính.
- Suy giảm hệ miễn dịch: Khi hệ miễn dịch suy giảm, nguy cơ nhiễm HPV nhóm nguy cơ cao tăng lên, dẫn đến tăng khả năng mắc ung thư cổ tử cung.
- Uống thuốc tránh thai kéo dài trên 5 năm.
- Bệnh nhân mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác (như chlamydia, lậu, giang mai,...) cũng có nguy cơ cao nhiễm virus HPV, dễ dẫn đến ung thư cổ tử cung.
- Người có hệ thống miễn dịch suy yếu do các bệnh lý khác do khả năng phòng vệ trước sự tấn công của virus thấp.
- Tiếp xúc với thuốc ngăn ngừa sảy thai. Nếu mẹ dùng thuốc diethylstilbestrol (còn được gọi là DES) khi đang mang thai, nguy cơ mắc bệnh ung thư cổ tử cung của con có thể tăng lên.
3. Các dấu hiệu bệnh
Khi gặp một trong các dấu hiệu sau đây, bệnh nhân nên thăm khám bác sĩ chuyên khoa càng sớm càng tốt:
- Xuất huyết âm đạo bất thường (như xuất huyết trong hoặc sau khi quan hệ tình dục, xuất huyết giữa các kỳ kinh, xuất huyết sau mãn kinh hoặc chu kỳ kinh nguyệt bất thường).
- Tăng tiết dịch âm đạo bất thường.
- Đau vùng chậu không liên quan đến kinh nguyệt.
- Thấy đau khi quan hệ tình dục.
- Thay đổi thói quen đi tiểu.
- Thiếu máu, sụt cân không rõ nguyên nhân.
4. Phòng ngừa ung thư cổ tử cung
Ngoài ngừng hút thuốc lá, ung thư cổ tử cung còn có thể phòng ngừa bằng những biện pháp sau (đặc biệt là đối với phụ nữ nhiễm virus HPV):
- Bảo vệ bản thân khỏi khác vấn đề nhiễm khuẩn qua đường tình dục: Sử dụng bao cao su giúp giảm nguy cơ nhiễm HPV và mắc các bệnh lây qua đường tình dục.
- Điều trị nhiễm HPV.
- Sàng lọc ung thư cổ tử cung: Phụ nữ từ 25 tuổi trở nên thực hiện sàng lọc sớm ung thư cổ tử cung 3 năm/lần.
- Tiêm vaccine HPV: Việc tiêm phòng vaccine HPV có ý nghĩa lớn trong việc phòng bệnh ung thư cổ tử cung.
5. Ung thư cổ tử cung phát triển như thế nào trong cơ thể?
Ở giai đoạn xâm lấn, nếu ung thư cổ tử cung không được phát hiện kịp thời, các tế bào ung thư sẽ bắt đầu xâm lấn tử cung và những cơ quan lân cận (như âm đạo, bàng quang, trực tràng) rồi di chuyển vào hạch bạch huyết. Nếu không điều trị kịp thời, các tế bào ung thư sẽ di căn đến các cơ quan xa hơn như gan, phổi, xương, não,...
Đáng chú ý là ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm thường không có triệu chứng rõ rệt, dễ khiến bệnh nhân chủ quan, mặc dù đây là giai đoạn mà các phương pháp điều trị có hiệu quả rất cao, tỷ lệ thành công lên đến hơn 90% nếu bệnh còn khu trú ở cổ tử cung và gần 100% ở giai đoạn tiền ung thư. Vì vậy, việc tiêm phòng HPV và tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ là hai biện pháp hiệu quả nhất để phòng ngừa và phát hiện sớm bệnh.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.