Loét dạ dày - tá tràng ở trẻ em

Bài viết được viết bởi Bác sĩ CKII Trần Văn Quang - Khoa nội Nhi Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec TImes City

Loét dạ dày-tá tràng (LDD-TT) là một bệnh khá phổ biến ở người lớn, chiếm khoảng 5-10% dân số ở Việt nam. Tại Hoa Kỳ bệnh chiếm 10% dân số và chi phí hàng năm cho điều trị khoảng 4 tỉ đô-la Mỹ. Ở trẻ em, bệnh chưa được quan tâm nhiều, có quan niệm cho rằng đó là bệnh chỉ gặp ở người lớn, trẻ em không mắc bệnh này.

Từ đầu thập niên 70, lần đầu tiên người ta dùng ống soi mềm phế quản để soi dạ dày cho trẻ em và sau đó được sử dụng khá rộng rãi thì LDD-TT ở trẻ em không phải hiếm gặp nữa. Bệnh thường biểu hiện đau bụng, xuất huyết tiêu hóa và thiếu máu ở trẻ em. Đặc điểm của bệnh là diễn biến kéo dài, có xu hướng mạn tính và hay tái phát.

1. Triệu chứng lâm sàng

Bệnh có thể biểu hiện bằng tình trạng xuất huyết tiêu hoá cấp tính như nôn ra máu hoặc ỉa phân đen kèm theo đau bụng và tình trạng thiếu máu cấp tính. Nếu không được điều trị kịp thời sẽ gây tử vong do tình trạng thiếu máu. Nhưng cũng có thể diễn biến từ từ trong thể loét tiên phát thường gặp ở trẻ lớn, đặc biệt là trẻ > 6 tuổi, biểu hiện lâm sàng chính gần giống người lớn nhưng ít điển hình hơn.

  • Tiền sử gia đình đã có người bị loét dạ dày-tá tràng.
  • Đau bụng: Chiếm 64,5% các trường hợp loét, đau thượng vị (60%), đau quanh rốn hoặc toàn bụng, đau có liên quan tới bữa ăn, đau có thể giảm sau khi ăn. Trẻ thường đau đêm nên trẻ bị đánh thức lúc nửa đêm hoặc đầu buổi sáng (loét HTT). Đau nhiều đợt, tái diễn, thường đau bụng là lý do khiến người nhà đưa các cháu đi khám.
  • Nôn tái diễn, liên quan đến bữa ăn
  • Cảm giác khó chịu, mơ hồ vùng thượng vị
  • Xuất huyết đường tiêu hóa: Trẻ có thể nôn ra máu và ỉa phân đen, bệnh cảnh có thể xảy ra ồ ạt cấp tính hoặc diễn biến từ từ, kéo dài.
  • Thiếu máu: Thường là thiếu máu nhược sắc do chảy máu kín đáo nhưng có khi thiếu máu nặng, cấp tính gây sốc. Một số trường hợp biểu hiện kín đáo, chỉ thiếu máu là triệu chứng nổi bật, chẩn đoán ban đầu thường là thiếu máu chưa rõ nguyên nhân.

Nếu không phát hiện và điều trị kịp thời sẽ có các biến chứng như thiếu máu mạn tính, ảnh hưởng phát triển thể chất của trẻ, hẹp môn vị thậm chớ ung thư do có liên quan đến nhiễm H.P ( Dù rất hiếm gặp ở trẻ nhỏ).

Bệnh nhân 13 T loét cấp tính Hành tá tràng đang gây chảy máu


Đau bụng là một trong các triệu chứng viêm loét dạ dày ở trẻ em
Đau bụng là một trong các triệu chứng viêm loét dạ dày ở trẻ em

2. Vai trò Vi khuẩn HP với bệnh viêm loét dạ dày tá tràng

Helicobacter Pylori (HP) lần đầu tiên đư­ợc 2 bác sĩ ng­ười Uc là R. Warren và B. Marshall phát hiện năm 1982. Sau nhiều lần thất bại họ đã nuôi cấy thành công một loại vi khuẩn từ mẫu sinh thiết dạ dày và đặt tên giống Campylobacter. Từ năm 1989 vi khuẩn này chính thức đ­ược goi là H. Pylori. Đó là một loại xoắn khuẩn Gr (-), kích thước 0,3- 0,5 μm, có 4-6 roi ở một đầu, sống trong lớp nhày bao phủ niêm mạc dạ dày Trong các nghiên cứu gần đây, ngày càng thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa tỉ lệ mắc bệnh, tần xuất tái phát viêm loét dạ dày-tá tràng với tình trạng nhiễm HP.

Đường nhiễm HP chủ yếu qua 2 đư­ờng là đư­ờng phân-miệng và miệng- miệng. Ngoài ra còn đường chất nôn, đư­ờng dạ dày. Tỉ lệ nhiễm liên quan đến vệ sinh môi tr­ường và ăn uống.

Tỉ lệ nhiễm HP khá cao ở ng­ười viêm loét dạ dày tá tràng, ngày càng có nhiều nghiên cứu thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa tỉ lệ nhiễm HP và bệnh lý loét dạ dày-tá tràng . Vi khuẩn sau khi xâm nhập vào dạ dày sẽ cư trú ở lớp nhày bao phủ bề mặt dạ dày, nhờ có các yếu tố bám dính vi khuẩn bám vào lớp biểu mô niêm mạc dạ dày và tiết ra các men, độc tố gây tổn thư­ơng niêm mạc dạ dày.

Để phát hiện ra vi khuẩn HP, có một số phương pháp nhưnhuộm soi trực tiếp, làm mô bệnh học, làm test nhanh (Urease test) và nuôi cấy, trong đó nuôi cấy là tiêu chuẩn vàng xác định nhiễm HP và qua đó làm kháng sinh đồ giúp cho thầy thuốc chọn lựa kháng sinh phù hợp nhất để tiệt trừ HP. Hiện nay đã áp dụng những biện pháp chẩn đoán không xâm lấn, bớt gây phiền toái cho bệnh nhân cũng có độ chính xác cao và dễ thực hiện.

  • Test thở với Ure gắn phóng xạ C13, cho bệnh nhân uống lượng nhỏ ure gắn C13 đã gắn phóng xạ. Nếu bệnh nhân có nhiễm HP, Urease của HP sẽ nhanh chóng phân hủy Ure-C13 thành Amoniac và Dioxide carbon . Dioxide carbon có hoạt tính phóng xạ này sẽ vào máu, tới phổi và được phát hiện qua khí thở ra bằng máy quang phổ kế.
  • Xét nghiêm phân tìm kháng nguyên HP (Faecal test). Kỹ thật ELISA tìm kháng nguyên trong phân qua bộ KIT chẩn đoán đơn giản, có độ nhạy cao. Phương pháp này thích hợp phát hiện HP ở trẻ em cũng như theo dõi HP trước và sau điều trị. Do giá thành nên chưa thực sự phổ biến.
  • Xét nghiệm nước bọt và nước tiểu : Các xét nghiệm này dựa trên việc phát hiện IgA hoặc IgG (chủ yếu IgG) kháng HP có trong nước bọt và nước tiểu. Hiện phương pháp này chưa phổ biến.

Vi khuẩn HP là nguyên nhân gây viêm loét dạ dày tá tràng
Vi khuẩn HP là nguyên nhân gây viêm loét dạ dày tá tràng

3. Điều trị bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng

Loại trừ vi khuẩn HP là khâu quan trọng trong điều trị loét dạ dày-tá tràng, giúp làm nhanh liền tổn thương và đặc biệt có tác dụng ngăn ngừa bệnh tái phát có hiệu quả. Thường phối hợp 3 loại thuốc để tiệt trừ H.P

  • Kết hợp kháng sinh dùng từ 1-2 tuần phối hợp với thuốc ức chế bài tiết axít có tác dụng diệt HP một cách có hiệu quả.
  • Giảm yếu tố gây loét: ức chế bài tiết a xít, trung hoà HCl.
  • Tăng cường yếu tố chống loét, che phủ niêm mạc, kích thích sự tái tạo niêm mạc biểu mô và tiết chất nhày.
  • Loại bỏ nguyên nhân gây loét thứ phát.

Với nhiều loại thuốc mới hiện nay trên thị trường việc điều trị loét dạ dày-tá tràng ở trẻ em đem lại nhiều kết quả tốt tránh được những tai biến liên quan đến ngoại khoa như thủng hoặc hẹp mụn vị.

Loét dạ dày tá tràng, nội soi dạ dày, dạ dày, xuất huyết tiêu hóa, đau bụng, tiêu hóa, vi khuẩn HP, điều tr leost dạ dafyu,

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe