Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi các bác sĩ Nội Tim mạch và Tim mạch can thiệp - Trung tâm Tim mạch - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Rối loạn nhịp tim là một tình trạng bất thường của nhịp tim. Rối loạn nhịp tim xuất hiện trong nhiều bối cảnh bệnh lý khác nhau, chẩn đoán và phân loại rối loạn nhịp tim trên lâm sàng chủ yếu dựa vào điện tâm đồ.
1. Rối loạn nhịp tim là gì?
Tim là một trong những cơ quan thiết yếu trong cơ thể con người. Hoạt động co bóp của tim diễn ra nhịp nhàng và đều đặn nhờ vào hệ thống dẫn truyền các xung động và sự toàn vẹn của các tế bào cơ tim.
Tế bào cơ tim là loại tế bào đặc biệt, có tính chất trung gian của cả hai loại tế bào cơ trơn và cơ vân. Giữa những tế bào cơ tim tồn tại các đoạn tiếp nối, cấu trúc tương tự như hợp bào. Nhờ vào đặc điểm này, khi một kích thích xuất hiện, tốc độ lan truyền diễn ra nhanh hơn giữa các tế bào cơ tim.
Hệ thống dẫn truyền xung động điện của tim có khả năng tự phát nhịp và dẫn truyền các xung động điện qua các buồng tim giúp sợi cơ tim co bóp đồng bộ, đảm bảo hoạt động điện sinh học của tim. Các thành phần của hệ thống dẫn truyền bao gồm:
● Nút xoang: nằm trong cơ tâm nhĩ phải. Đây là nút chủ nhịp của tim, có khả năng tự phát xung với tần số khoảng 80 - 100 lần/ phút. Nút xoang chịu sự chi phối của hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm.
● Nút nhĩ thất: nằm bên phải phần dưới vách liên nhĩ, có khả năng phát xung với tần số chậm hơn nút xoang, khoảng 40 - 60 lần/ phút.
● Bó His: chạy dọc theo vách liên thất, nối từ nút nhĩ thất xuống tâm thất. Bó His chạy trong vách liên thất một đoạn ngắn khoảng 1 centimet, sau đó chia thành hai nhánh trái và phải. Hai nhánh này chạy xuống tâm thất phải và trái tương ứng, cho ra nhiều nhánh nhỏ len lỏi giữa các sợi cơ thất gọi là sợi Purkinje. Bó His, hai nhánh phải trái của nó và các sợi Purkinje cũng có khả năng phát xung nhưng với tần số rất nhỏ, khoảng 20 - 40 nhịp/ phút.
Rối loạn nhịp tim là tình trạng bệnh lý xuất hiện do sự rối loạn hoạt động điện sinh học của tim. Khi sự phát xung tạo nhịp của nút xoang hoặc/ và hoạt động của các sợi dẫn truyền xung động gặp bất thường, rối loạn nhịp tim sẽ xuất hiện.
2. Nguyên nhân gây rối loạn nhịp tim
Khi một người bệnh đến khám tại cơ sở y tế vì rối loạn nhịp tim, bác sĩ cần hỏi tiền sử, thăm khám lâm sàng kỹ và chỉ định nhiều xét nghiệm cần thiết vì nguyên nhân của rối loạn nhịp tim rất đa dạng. Một số bệnh lý thường gặp có thể gây ra rối loạn nhịp tim như:
● Nhiễm khuẩn: một số bệnh lý nhiễm khuẩn gây ảnh hưởng đến hoạt động co bóp và dẫn truyền xung động của tim, phổ biến nhất là thấp tim. Bạch hầu, thương hàn, ... cũng là những bệnh lý nhiễm khuẩn khác được cho rằng có thể gây nên rối loạn nhịp tim
● Nhiễm độc: các loại thuốc chống loạn nhịp được sử dụng không đúng cách, dẫn đến tình trạng ngộ độc có thể trở nên phản tác dụng và gây loạn nhịp như thuốc beta blocker, digitalis, procainamid, reserpine, ...
● Rối loạn điện giải: tăng giảm kali máu, canxi máu, ...
● Bệnh lý toàn thân: đái tháo đường, cường giáp, ...
● Bệnh cơ tim: chấn thương cơ tim, nhồi máu cơ tim, các bệnh tim bẩm sinh như tứ chứng fallot, còn ống động mạch, ...
● Rối loạn hệ thần kinh thực vật
● Di chứng sau phẫu thuật liên quan đến lồng ngực
● Yếu tố di truyền.
3. Phân loại các dạng rối loạn nhịp tim
Các dạng rối loạn nhịp tim được tìm thấy trên lâm sàng rất đa dạng. Có nhiều cách để phân loại rối loạn nhịp tim, dựa vào vị trí phát nhịp bất thường hoặc dựa vào tần số tim. Phân biệt các loại loạn nhịp tim theo tần số tim là cách tiếp cận ban đầu khá dễ thực hiện, bao gồm:
- Rối loạn nhịp tim với tần số bình thường và đều: Block nhĩ thất độ I, nhịp tự thất gia tốc, nhịp bộ nối gia thất, nhịp nhanh trên thất kèm block dẫn truyền, ngoại tâm thu nhĩ, cuồng nhĩ kết hợp với block nhĩ thất, dẫn truyền lệch hướng, ngộ độc thuốc
- Rối loạn nhịp tim với tần số bình thường và không đều: Block nhĩ thất độ II, nhịp nhanh trên thất dẫn truyền không đều như rung nhĩ, cuồng nhĩ, loạn nhịp xoang có hoặc không cùng với block dẫn truyền hoặc dẫn truyền lệch hướng, ngộ độc thuốc, tăng Kali máu
- Rối loạn nhịp tim với tần số tim chậm và đều: nhịp chậm xoang, nhịp tự thất, nhịp chậm bộ nối, Block nhĩ thất hoàn toàn có hoặc không kết hợp với nhịp thoát bộ nối, nhịp nhanh trên thất kèm block nhĩ thất nặng nề
- Rối loạn nhịp tim với tần số chậm và không đều: block xoang nhĩ, block nhĩ thất độ II nhóm 1 hoặc nhóm 2, rung nhĩ chậm
- Rối loạn nhịp tim với tần số nhanh và đều: nhịp nhanh xoang, nhịp nhanh thất, nhịp nhanh vào lại nút xoang, nhịp nhanh dẫn truyền lệch hướng, ngộ độc thuốc, tăng Kali máu
- Rối loạn nhịp tim với tần số nhanh và không đều: nhịp nhanh trên thất, nhịp nhanh có ngoại tâm thu nhĩ và thất, rung thất, nhịp nhanh thất, nhịp nhanh nhĩ đa ổ, rung nhĩ và cuồng nhĩ có đường dẫn truyền phụ, ...
4. Đặc điểm điện tâm đồ của các dạng rối loạn nhịp tim thường gặp
Điện tâm đồ là phương tiện ghi lại hoạt động điện của tim, giúp chẩn đoán và phân loại các dạng rối loạn nhịp khác nhau.
4.1 Nhịp nhanh xoang
Điện tâm đồ của nhịp nhanh xoang vẫn mang đầy đủ đặc điểm của một nhịp xoang như xuất hiện sóng P bình thường, với phức bộ QRS đầy đủ. Tần số tim tính được trên giấy ghi trên 100 nhịp/ phút, đều.
4.2 Nhịp chậm xoang
Bệnh nhân nhịp chậm xoang thường vào viện với các triệu chứng trên lâm sàng như ngất, cảm giác choáng, xâm xoàng. Mắc các điện cực đo điện tâm đồ ghi nhận đủ các đặc điểm của một nhịp xoang như có sóng P, khoảng PR và phức bộ QRS có hình dạng bình thường, kết hợp với tần số tim chậm dưới 60 nhịp/ phút.
4.3 Rung nhĩ
Khi xuất hiện rung nhĩ, trên điện tâm đồ không còn thấy hình ảnh sóng P bình thường, thay vào đó là các sóng f nhỏ lăn tăn, với tần số nhanh khoảng 300 - 600 nhịp/ phút. Phức bộ QRS biến đổi về biên độ không đều.
4.4 Cuồng nhĩ
Tương tự rung nhĩ, cuồng nhĩ là một dạng rối loạn nhịp tim, thuộc phân nhóm nhịp nhanh trên thất. Điện tâm đồ của cuồng nhĩ không còn thấy sóng P bình thường, thay vào đó là các sóng F có hình dạng răng cưa, tần số thấp hơn rung nhĩ, khoảng 200 - 300 nhịp/ phút.
4.5 Nhịp nhanh kịch phát trên thất
Tần số tim quan sát được trên điện tâm đồ khoảng 180 nhịp/ phút. Sóng P không còn thấy vì lẫn vào phức bộ QRS bình thường, đều. Đoạn ST có thể biến đổi theo hướng chênh xuống.
4.6 Nhịp nhanh thất
Điện tâm đồ của nhịp nhanh thất chỉ quan sát thấy được các phức bộ thất giãn rộng, tần số khoảng 120 - 160 nhịp/ phút. Nhịp nhĩ chậm và tách biệt với nhịp thất, khó quan sát sóng P.
4.7 Rung thất
Đây là một dạng rối loạn nhịp tim cấp cứu vì dễ dẫn đến đột tử. Điện tâm đồ của rung thất có dạng rối loạn phức bộ thất đa dạng, không còn thất hình dạng bình thường của QRS. Trong trường hợp này tim không còn co bóp bình thường, mà chỉ rung lên.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Bài viết tham khảo nguồn: Hội Tim mạch học Việt Nam