Bài viết bởi Bác sĩ Vũ Dũng Kiên - Khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City
Nghiên cứu gần đây đã cho thấy sự giảm rõ rệt về tỷ lệ và tần suất mắc chứng sa sút trí tuệ, những cải thiện này dường như có liên quan đến sự đầu tư sớm hơn ở cấp độ quần thể dân số, chẳng hạn như giáo dục cộng đồng tốt hơn và cải thiện tình trạng liên quan đến bệnh mạch máu, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh hơn nữa sự cần thiết của các biện pháp phòng ngừa ban đầu này.
1. Phòng ngừa bệnh Alzheimer
Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý: Mặc dù những nỗ lực trên thế giới nhằm cập nhật và nâng cấp bằng chứng liên quan đến phòng ngừa bệnh Alzheimer đã tăng tốc trong những năm gần đây, nhưng các nghiên cứu đã bị cảnh báo bởi các kết luận không thống nhất và các thiết kế nghiên cứu khác nhau. Ngoài ra, số lượng lớn các kết quả nghiên cứu không đồng nhất khiến việc giải thích bằng chứng trở nên khó khăn.
Giáo sư Yu, Đại học Fudan, Thượng Hải, Trung Quốc cho biết: “Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy bệnh Alzheimer, giống như các bệnh mãn tính thông thường khác, có thể phòng ngừa được nhờ vào việc nâng cao trình độ học vấn và cải thiện việc kiểm soát các yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có những hướng dẫn dựa trên bằng chứng để ngăn ngừa căn bệnh này”.
2. 21 khuyến nghị dựa trên bằng chứng để phòng ngừa bệnh Alzheimer
Những phát hiện mới từ một đánh giá lớn có hệ thống và phân tích tổng hợp cho thấy 10 yếu tố nguy cơ chính của bệnh Alzheimer (AD). Các phát hiện trên đã dẫn đến việc công bố điều mà các nhà nghiên cứu gọi là các biện pháp đầu tiên ngăn ngừa bệnh Alzheimer dựa trên bằng chứng. Tài liệu hướng dẫn bao gồm 21 khuyến nghị chủ yếu dựa trên 10 yếu tố nguy cơ bệnh Alzheimer với bằng chứng loại 1, mức độ A. Những yếu tố nguy cơ này bao gồm, mức độ hoạt động nhận thức thấp, chỉ số khối cơ thể (BMI) cao ở giai đoạn cuối đời, trầm cảm, tiểu đường và huyết áp cao và các yếu tố khác.
"Hướng dẫn đầu tiên dựa trên bằng chứng được đề xuất, cung cấp cho bác sĩ lâm sàng và các bên liên quan hướng dẫn hiện tại để phòng ngừa bệnh Alzheimer", tác giả chính Jin-Tai Yu, MD, PhD, giáo sư thần kinh học, Đại học Fudan, Thượng Hải, Trung Quốc, nói với Medscape Medical News . Yu nói thêm: “Gần 2/3 số đề xuất này nhắm vào các yếu tố nguy cơ mạch máu và lối sống, củng cố tầm quan trọng của việc kiểm soát tình trạng mạch máu tốt và duy trì lối sống lành mạnh để ngăn ngừa bệnh Alzheimer.
Đối với nghiên cứu này, nhóm điều tra viên quốc tế đã củng cố các bằng chứng hiện có từ các nghiên cứu tiền cứu quan sát và các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng để hình thành các mức bằng chứng và các loại gợi ý lâm sàng để phòng ngừa bệnh Alzheimer
Các nhà nghiên cứu đã tìm kiếm cơ sở dữ liệu PubMed, EMBASE và CENTRAL từ khi thành lập đến tháng 3 năm 2019 để tìm các nghiên cứu tiền cứu quan sát có liên quan và các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên.
Các ước tính rủi ro điều chỉnh đa biến được rút ra cho mỗi nghiên cứu. Quy trình này bao gồm ba bước độc lập - trích xuất dữ liệu bởi ba cặp điều tra viên có kinh nghiệm, kiểm tra dữ liệu độc lập bởi 10 nhà nghiên cứu và đồng thuận/phân tích để giải quyết sự khác biệt. Chất lượng của các nghiên cứu đủ điều kiện được đánh giá bằng cách sử dụng các công cụ đánh giá. Độ tin cậy của các bằng chứng được phân loại cấp độ A, cấp độ B hoặc cấp độ C. Các khuyến nghị được phân loại I (khuyến nghị mạnh), loại II (khuyến nghị yếu) hoặc loại III (không được khuyến nghị).
Có 33.145 hồ sơ nghiên cứu tiền cứu quan sát và 11.531 hồ sơ thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên được lựa chọn. Sau khi các tiêu chí loại trừ được áp dụng, 243 nghiên cứu tiền cứu quan sát và 153 thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đã hoàn thành được đưa vào phân tích cuối cùng. Từ những nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã đưa vào phân tích tổng hợp 104 yếu tố nguy cơ có thể thay đổi và 11 biện pháp can thiệp.
Kết quả nghiên cứu đưa ra 21 khuyến nghị dựa trên bằng chứng để phòng ngừa bệnh Alzheimer. Các yếu tố nguy cơ này có bằng chứng tin cậy ở các mức độ khác nhau, với 11 yếu tố nguy cơ ở cấp độ A và 10 yếu tố nguy cơ ở cấp độ B. Họ cũng đưa ra các khuyến nghị có độ mạnh khác nhau, với 19 khuyến nghị loại I và 2 khuyến nghị loại III.
19 yếu tố với khuyến nghị loại I bao gồm:
2.1. 10 yếu tố có bằng chứng cấp độ A
- Hoạt động nhận thức
- Tăng homocysteinemia máu (dấu ấn sinh học bệnh lý tim mạch)
- Tăng BMI ở người cao tuổi
- Trầm cảm
- Stress
- Bệnh tiểu đường
- Chấn thương đầu
- Tăng huyết áp ở tuổi trung niên
- Hạ huyết áp thế đứng
- Giáo dục
2.2. 9 yếu tố có bằng chứng cấp độ B
- Béo phì ở tuổi trung niên
- Sút cân ở người cao tuổi
- Tập thể dục
- Hút thuốc lá
- Ngủ
- Bệnh tim mạch
- Suy nhược
- Rung nhĩ
- Vitamin C
Hai yếu tố với khuyến nghị loại III và do đó không được khuyến cáo là:
- Liệu pháp thay thế estrogen (cấp độ A)
- Thuốc ức chế acetylcholinesterase (cấp độ B).
6 yếu tố được đánh giá là có bằng chứng yếu (cấp độ C) cần được nghiên cứu thêm.
- Kiểm soát huyết áp tâm trương
- Sử dụng kháng viêm non-steroid (NSAID)
- Hoạt động xã hội
- Loãng xương
- Tiếp xúc với thuốc trừ sâu
- Nhiễm silicon từ nước uống.
Một số phát hiện từ phân tích tổng hợp đã thách thức sự hiểu biết thông thường về căn nguyên của bệnh Alzheimer. Yu lưu ý.
Mặc dù người ta tin rằng tỷ lệ mắc bệnh Alzheimer ở phụ nữ mãn kinh cao hơn, nhưng “nghiên cứu của chúng tôi cho thấy liệu pháp thay thế estrogen không làm giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer”, Yu nói. “Thay vào đó, một quá trình điều trị dài, đặc biệt là các liệu trình kéo dài hơn 10 năm, có thể làm trầm trọng thêm sự tiến triển của bệnh Alzheimer”, ông nói thêm.
Người ta đã đề xuất rằng các chất ức chế acetylcholinesterase (ACI) có thể giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer. Mặc dù các tác nhân này có thể hiệu quả trong việc điều trị các triệu chứng Alzheimer, nhưng các phân tích tổng hợp mới cho thấy chúng không làm giảm nguy cơ bệnh Alzheimer, Yu cũng lưu ý. Ông nói: “Vì vậy, cả liệu pháp thay thế estrogen và ACI đều không được đề xuất để ngăn ngừa bệnh Alzheimer.
Yu lưu ý rằng nghiên cứu của họ là tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp lớn nhất, toàn diện nhất về bệnh Alzheimer cho đến nay. Do đó, các nhà điều tra tin tưởng rằng những gợi ý dựa trên bằng chứng này có thể giúp ngăn ngừa căn bệnh này.
Giáo dục, tập thể dục thường xuyên, duy trì chỉ số BMI khỏe mạnh, bổ sung đủ vitamin C, không hút thuốc và ngủ đủ giấc từ lúc trẻ sẽ giúp ngăn ngừa nhiều yếu tố nguy cơ bệnh Alzheimer chính, bao gồm tiểu đường, bệnh mạch máu não, tăng huyết áp, trầm cảm và stress, thông qua một lối sống lành mạnh hơn, duy trì một lối sống lành mạnh trong cuộc sống sau này cũng quan trọng không kém. Yu nói.
Mặc dù phát hiện của nghiên cứu có độ tin cậy cao, Yu cũng chỉ ra rằng phân tích có những hạn chế, bao gồm cả việc thiếu quan hệ nhân quả vốn có trong tất cả các nghiên cứu quan sát. Hơn nữa, các nhà điều tra lưu ý rằng các kết luận từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng không thể được khái quát hóa ngoài số bệnh nhân cụ thể, các biện pháp can thiệp, mức độ dùng thuốc và thời gian nghiên cứu. Các hạn chế tiềm ẩn khác bao gồm sự khác biệt về địa lý, định nghĩa về mức độ phơi nhiễm và mức độ phổ biến của các yếu tố nguy cơ riêng lẻ ở quần thể dân số.
Bình luận về những phát hiện mới của nghiên cứu cho Medscape Medical News , Yi Tang, MD, PhD, giáo sư thần kinh học tại Capital Medical University, Bắc Kinh, Trung Quốc, cho biết nghiên cứu này đặc biệt có ích do hiện tại thiếu các biện pháp điều chỉnh bệnh mà được xác thực để làm chậm hoặc ngăn chặn sự tiến triển của bệnh sa sút trí tuệ. Tang, người không tham gia nghiên cứu cho biết: “Do đó, việc ngăn ngừa chứng sa sút trí tuệ được hướng dẫn bằng cách hiểu sâu hơn về các yếu tố nguy cơ là đặc biệt quan trọng. Ông nói thêm: 21 đề xuất dựa trên bằng chứng trong phân tích tổng hợp hiện tại có thể "cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng những hướng dẫn vững chắc hơn để phòng ngừa bệnh Alzheimer". "Với những đề xuất dựa trên bằng chứng này, các bác sĩ lâm sàng có thể cung cấp một cách toàn diện về các chiến lược phòng ngừa bệnh Alzheimer ở những người có tiền sử gia đình bị sa sút trí tuệ hoặc có nguy cơ suy giảm nhận thức cao. Hầu như không thể ngăn ngừa chứng sa sút trí tuệ nếu chúng ta chỉ tập trung vào một hoặc một số nguy cơ”. Tang nói. Ngoài ra, những phát hiện cần được xác nhận trong các thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên trong tương lai, ông lưu ý.
Cũng bình luận cho Medscape Medical News, Suzanne Craft, Tiến sĩ, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bệnh Alzheimer, Trường Y Wake Forest, Winston-Salem, Bắc Carolina, nói rằng phân tích tổng hợp là một khởi đầu tốt trong một lĩnh vực mà "các phân tích tổng hợp dựa trên bằng chứng nghiêm túc về các chiến lược phòng ngừa bao gồm lối sống và các tình trạng bệnh đi kèm là rất cần thiết". Mặc dù Craft khen ngợi các tác giả đã giải quyết một lĩnh vực nghiên cứu đầy thách thức, bà cũng lưu ý rằng phân tích đã bỏ qua các thử nghiệm chính, bao gồm cả thử nghiệm SPRINT-MIND , được báo cáo vào năm 2019 rằng không có bằng chứng cho thấy phác đồ hạ huyết áp làm giảm nguy cơ sa sút trí tuệ có thể xảy ra. "Nhưng nhìn chung, bài báo trình bày một điểm khởi đầu tốt và đưa ra các khuyến nghị chung sẽ hữu ích cho các bác sĩ. Có một số thử nghiệm nhỏ đang được tiến hành sẽ cải thiện đáng kể lần chỉnh sửa tiếp theo của bài báo này" - Craft nói.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec với hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế hiện đại cùng đội ngũ chuyên gia, bác sĩ nhiều năm kinh nghiệm trong khám điều trị bệnh, người bệnh hoàn toàn có thể yên tâm thăm khám và điều trị bệnh Alzheimer tại Bệnh viện.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Nguồn tham khảo: medscape.com
XEM THÊM