Hội chứng sốt chu kỳ di truyền

Hội chứng sốt chu kỳ di truyền là các rối loạn di truyền đặc trưng bởi các đợt tái diễn của sốt và các triệu chứng mà không thể giải thích được bởi các nguyên nhân khác.

1. Hội chứng sốt chu kỳ di truyền là gì?

Hội chứng sốt chu kỳ di truyền (Hereditary Periodic Fever Syndromes) bao gồm các bệnh gây sốt theo chu kỳ (từng đợt) mà không có nguyên nhân do nhiễm trùng (vi rút, vi khuẩn). Nhìn chung, trẻ mắc các hội chứng này đều có sức khỏe tốt giữa các chu kỳ. Hội chứng này thường do di truyền (di truyền từ cha mẹ) hoặc là kết quả của một đột biến (khiếm khuyết hoặc nhầm lẫn) trong gen. Các hội chứng được xác định bởi một số yếu tố, bao gồm:

  • Khiếm khuyết gen
  • Các đặc điểm lâm sàng của hội chứng
  • Các bộ phận của cơ thể bị ảnh hưởng ngoài cơn sốt
  • Tuổi của trẻ khi hội chứng bắt đầu
  • Dân tộc của đứa trẻ và cha mẹ

Hầu hết các hội chứng này có cách điều trị cụ thể, thường dựa trên sự hiểu biết về vấn đề do khiếm khuyết di truyền gây ra.

Hầu hết các bệnh nhân biểu hiện bệnh từ thời thơ ấu; dưới 10% số bệnh nhân biểu hiện bệnh sau 18 tuổi. Các rối loạn đặc trưng nhất là

  • Sốt Địa Trung Hải gia đình (FMF)
  • Hội chứng Hyperimmunoglobulin D (HIDS)
  • Hội chứng chu kỳ liên quan đến thụ thể của yếu tố hoại tử khối u (TRAPS)

Các rối loạn khác bao gồm


Hội chứng sốt chu kỳ di truyền (Hereditary Periodic Fever Syndromes) bao gồm các bệnh gây sốt theo chu kỳ (từng đợt) mà không có nguyên nhân do nhiễm trùng (vi rút, vi khuẩn)
Hội chứng sốt chu kỳ di truyền (Hereditary Periodic Fever Syndromes) bao gồm các bệnh gây sốt theo chu kỳ (từng đợt) mà không có nguyên nhân do nhiễm trùng (vi rút, vi khuẩn)

2. Sốt Địa Trung Hải gia đình

Sốt Địa Trung Hải gia đình (FMF) là hội chứng sốt chu kỳ di truyền phổ biến nhất. Bệnh nhân bị sốt nhiều lần, kèm theo đau bụng, ngực, khớp và sưng tấy. Căn bệnh này thường ảnh hưởng đến những người gốc Địa Trung Hải và Trung Đông, điển hình là người Do Thái Sephardic, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Ả Rập và người Armenia. Kể từ khi phát hiện ra khiếm khuyết gen, nó đang được chẩn đoán thường xuyên hơn, ngay cả trong những quần thể mà người ta cho là rất hiếm, chẳng hạn như người Ý, người Hy Lạp và người Do Thái Ashkenazi. Các đợt FMF bắt đầu trước 20 tuổi ở khoảng 90% bệnh nhân. Ở hơn một nửa số bệnh nhân, bệnh xuất hiện trước 10 tuổi.

Nguyên nhân gây ra sốt Địa Trung Hải gia đình?

FMF là một bệnh di truyền. Gen chịu trách nhiệm được gọi là gen MEFV, được đặt theo tên của Biển Địa Trung Hải, và nó ảnh hưởng đến một loại protein gọi là pyrin, có vai trò trong việc kiểm soát tự nhiên của chứng viêm. Khi gen này bị khiếm khuyết, việc điều tiết phản ứng viêm không thể được thực hiện đúng cách và bệnh nhân sẽ bị sốt kèm theo các triệu chứng khác. Nhiễm trùng, chấn thương, kinh nguyệt hoặc căng thẳng tâm lý có thể gây ra các đợt FMF.

Sốt Địa Trung Hải gia đình được di truyền như thế nào?

FMF được di truyền như một bệnh lặn trên NST thường (có nghĩa là mặc dù đứa trẻ có thể mắc bệnh nhưng cả cha và mẹ đều không cần biểu hiện các triệu chứng của bệnh). Trong trường hợp này, đứa trẻ nhận được hai gen đột biến, một từ mẹ và một từ cha. Thường thì một số người trong đại gia đình sẽ mắc bệnh. Nếu một đứa trẻ mắc bệnh và cha mẹ là người mang mầm bệnh, thì có 25% khả năng một đứa trẻ khác sẽ bị FMF. Nếu một trong hai đứa trẻ bị FMF và một trong hai cha mẹ cũng bị FMF, thì có 50% khả năng một đứa trẻ khác bị FMF.


Sốt Địa Trung Hải gia đình (FMF) là hội chứng sốt chu kỳ di truyền phổ biến nhất
Sốt Địa Trung Hải gia đình (FMF) là hội chứng sốt chu kỳ di truyền phổ biến nhất

Các triệu chứng chính của sốt Địa Trung Hải gia đình là gì?

Các triệu chứng chính của bệnh là:

  • Sốt tái phát
  • Đau bụng
  • Tưc ngực
  • Đau khớp

Không phải các trẻ mắc hội chứng này đều xuất hiện tất cả các triệu chứng và các triệu chứng có thể thay đổi theo thời gian. Các chu kỳ bệnh tự khỏi mà không cần điều trị và thường kéo dài từ một đến bốn ngày. Hầu hết trẻ em hoàn toàn bình thường giữa các chu kỳ, nhưng một số trẻ có những chu kỳ bệnh thường xuyên dẫn đến chúng không hồi phục hoàn toàn hoặc không phát triển bình thường. Một số đợt bệnh có thể gây đau đớn đến nỗi bệnh nhân hoặc gia đình phải tìm kiếm sự trợ giúp y tế tại khoa cấp cứu. Ví dụ, các cơn đau bụng dữ dội có thể giống như viêm ruột thừa cấp tính và do đó một số bệnh nhân có thể phẫu thuật vùng bụng, chẳng hạn như cắt ruột thừa. Cơn đau ngực có thể dữ dội đến mức khó thở sâu.

Thông thường, mỗi chu kỳ bệnh chỉ có một khớp bị ảnh hưởng, phổ biến nhất là mắt cá chân hoặc đầu gối. Khớp có thể sưng và đau đến mức trẻ không thể đi lại được. Khoảng một phần ba số bệnh nhân này bị phát ban đỏ trên khớp liên quan. Ở một số trẻ, dấu hiệu nhận biết duy nhất của bệnh có thể là các đợt sưng và đau khớp, được chẩn đoán nhầm là sốt thấp khớp cấp tính hoặc viêm khớp vô căn ở trẻ vị thành niên . Thông thường, tình trạng sưng khớp sẽ hết sau 5 đến 14 ngày. Trong khoảng 5 - 10% các trường hợp, liên quan đến khớp có thể trở thành mãn tính. Một số trẻ được báo cáo đau cơ ở chân.

Một số triệu chứng hiếm gặp như viêm màng ngoài tim tái phát, viêm cơ, viêm màng não và viêm tinh hoàn. Các chu kỳ đến thường xuyên có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của trẻ và gia đình, bao gồm cả việc đi học.

3. Hội chứng Hyperimmunoglobulin D (HIDS)

HIDS, còn được gọi là Hội chứng sốt định kỳ có liên quan đến Mevalonate Kinase, là một hội chứng di truyền lặn trên NST thường (có nghĩa là khi đứa trẻ bị bệnh thì cả cha và mẹ đều không cần biểu hiện các triệu chứng của bệnh). Hội chứng di truyền dẫn đến sốt cao từng đợt với phát ban trên da, sưng hạch bạch huyết ở cổ, đau bụng, nôn mửa và tiêu chảy. Bệnh khởi phát rất sớm, thường gặp ở trẻ sơ sinh.

Nguyên nhân HIDS là gì?

HIDS là một bệnh di truyền. Gen lỗi nằm trong một protein có tên là mevalonic kinase (MVK). MVK là một loại protein xúc tác cho một phản ứng hóa học trong cơ thể để tạo ra cholesterol. Trong HIDS, enzym MVK chỉ hoạt động khoảng 1 - 10% hoạt động của enzym bình thường. Hiện tại vẫn tìm được lý do tại sao khiếm khuyết gen lại gây sốt. Các chu kỳ có thể được kích hoạt bởi nhiễm trùng, căng thẳng và tiêm chủng hoặc không có bất kỳ yếu tố kích hoạt rõ ràng nào.


HIDS là một căn bệnh di truyền
HIDS là một căn bệnh di truyền

Các triệu chứng chính của HIDS là gì?

Các đợt sốt là triệu chứng chính của bệnh, kéo dài từ 3 đến 7 ngày và tái phát sau mỗi 2 đến 12 tuần. Các các chu kỳ xuất hiện đột ngột, kèm với đó là ớn lạnh, run rẩy. Các triệu chứng thường gặp khác có thể bao gồm:

  • Đau đầu
  • Đau bụng
  • Ăn mất ngon
  • Các triệu chứng giống như cúm

Các triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của bệnh có thể khác nhau ở mỗi bệnh nhân. Hầu hết bệnh nhân gặp phải các triệu chứng như:

  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Bệnh tiêu chảy
  • Viêm da
  • Vết loét đau trong miệng
  • Đau khớp

Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của tình trạng này là sưng hạch bạch huyết ở cổ và các bộ phận khác của cơ thể.

4. Hội chứng chu kỳ liên quan đến thụ thể của yếu tố hoại tử khối u (TRAPS)

Hội chứng chu kỳ liên quan đến thụ thể của yếu tố hoại tử khối u (TRAPS) là một bệnh di truyền trội trên NST thường (một khiếm khuyết gen đủ để dẫn đến mắc bệnh). Điều đó có nghĩa là một trong hai bố mẹ bị bệnh với một biến thể của bệnh hoặc khiếm khuyết gen mới được hình thành ở đứa trẻ mắc bệnh. Ngoài các cơn sốt, các triệu chứng khác có thể bao gồm:

  • Đau bụng
  • Bệnh tiêu chảy
  • Phát ban đỏ di cư
  • Đau cơ
  • Sưng quanh mắt

Các khiếm khuyết gen mới được phát hiện gần đây.

Nguyên nhân gây ra TRAPS?

TRAPS là do khiếm khuyết gen trong một protein gọi là thụ thể yếu tố hoại tử khối u (TNFR), dẫn đến tăng phản ứng viêm bình thường của bệnh nhân. Protein gây viêm, được gọi là yếu tố hoại tử khối u (TNF), hoạt động quá mức, vì thụ thể TNFR thường liên kết với TNF để kiểm soát hoạt động của nó. Nhiễm trùng, chấn thương hoặc căng thẳng tâm lý có thể gây ra các đợt sốt. Tuy nhiên, không phải mọi người bị khiếm khuyết gen đều có các dấu hiệu lâm sàng của TRAPS.


TRAPS là do khiếm khuyết gen trong một protein gọi là thụ thể yếu tố hoại tử khối u (TNFR), dẫn đến tăng phản ứng viêm bình thường của bệnh nhân
TRAPS là do khiếm khuyết gen trong một protein gọi là thụ thể yếu tố hoại tử khối u (TNFR), dẫn đến tăng phản ứng viêm bình thường của bệnh nhân

5. Hội chứng viêm đa cơ quan khởi phát ở trẻ sơ sinh (NOMID)

Hội chứng viêm đa cơ quan khởi phát ở trẻ sơ sinh (NOMID) là một bệnh di truyền hiếm gặp gây sốt từng đợt. Các triệu chứng của tình trạng này bắt đầu khi mới sinh hoặc được quan sát thấy trong những tuần đầu tiên sau sinh. Các triệu chứng đầu tiên thường là phát ban trên da và sốt. Trẻ sơ sinh cũng có các triệu chứng thần kinh, chẳng hạn như viêm màng não mãn tính, suy giảm chức năng thính giác và thị giác. Khoảng 50% trẻ em sau này tiến triển thành các bệnh lý liên quan đến khớp nghiêm trọng và có những bất thường về tăng trưởng đáng kể. Hai bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra bởi các khiếm khuyết trên cùng một gen NOMID được gọi là hội chứng Muckle-Wells (MWS) và hội chứng tự viêm do lạnh gia đình - còn được gọi là hội chứng nổi mề đay do lạnh gia đình (FCAS). Những bệnh này thường khởi phát muộn hơn. Toàn bộ nhóm các bệnh này hiện được gọi là hội chứng chu kỳ liên quan đến cryopyrin di truyền.

Nguyên nhân của NOMID là gì?

NOMID là một bệnh di truyền trội ở NST thường. Điều đó có nghĩa là một trong hai cha mẹ bị bệnh với một biến thể của bệnh hoặc khiếm khuyết gen mới được hình thành ở đứa trẻ bị bệnh. Một khiếm khuyết di truyền chỉ được tìm thấy ở 50% bệnh nhân. Sự khiếm khuyết gen nằm trong một loại protein gọi là cryopyrin, có nhiệm vụ quan trọng là kiểm soát tình trạng viêm trong cơ thể. NOMID xảy ra như nhau ở nam và nữ. Bệnh đã được quan sát thấy ở nhiều nhóm dân tộc và có ảnh hưởng theo mùa.

6. Hội chứng Muckle-Wells và hội chứng tự viêm do lạnh gia đình

Các hội chứng này liên quan đến các khiếm khuyết gen trên cùng một gen protein cryopyrin gây ra NOMID. Tương tự hội chứng NOMID, không có khuyết tật gen nào được tìm thấy ở khoảng 50% bệnh nhân. Các hội chứng này xảy ra muộn hơn NOMID và nhẹ hơn. Trong hội chứng tự viêm do lạnh gia đình, cảm lạnh và có thể là các yếu tố môi trường khác gây ra phát ban.

Trong hội chứng Muckle-Wells, bệnh nhân cũng bị sốt và điếc từng cơn. Trong cả hai hội chứng, bệnh nhân không được điều trị thường phát triển bệnh amyloidosis. Amyloid là một loại protein lắng đọng ở một số cơ quan ở trẻ em mắc các bệnh viêm mãn tính không được kiểm soát tốt. Amyloid thường lắng đọng ở thận, và đôi khi có thể lắng đọng trong ruột, da và tim. Sau cùng amyloid gây mất chức năng cơ quan, đặc biệt là thận.

7. Hội chứng PAPA

Hội chứng PAPA (viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm da mủ hoại thư, mụn trứng cá) là một rối loạn trội trên nhiễm sắc thể thường ảnh hưởng đến da và khớp.

Hội chứng PAPA là do các đột biến trong một gen trên nhiễm sắc thể 15q. Gen đột biến tạo ra một protein bị phosphoryl hóa quá mức, gắn với pyrin, do đó hạn chế hoạt động chống viêm của pyrin.

Viêm khớp khởi phát trong thập những năm đầu tiên và dần dần hủy hoại khớp. Các đợt chấn thương nhẹ có thể kích hoạt viêm khớp. Xuất hiện các vết loét khó lành kèm theo tổn thương dưới da, thường ở những nơi chấn thương (ví dụ tại vị trí tiêm chủng). Mụn trứng cá thường ở dạng nốt sần và nếu không được điều trị sẽ gây ra sẹo. Đến tuổi dậy thì, tình trạng viêm khớp có xu hướng giảm dần và các triệu chứng ngoài da sẽ chiếm ưu thế.


Hội chứng PAPA (viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm da mủ hoại thư, mụn trứng cá) là một rối loạn trội trên nhiễm sắc thể thường ảnh hưởng đến da và khớp
Hội chứng PAPA (viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm da mủ hoại thư, mụn trứng cá) là một rối loạn trội trên nhiễm sắc thể thường ảnh hưởng đến da và khớp

8. Hội chứng PFAPA (sốt chu kỳ, nhiệt miệng, viêm họng và viêm hạch mạc treo)

Hội chứng này bao gồm các đợt sốt tái phát kèm theo nhiệt miệng (viêm miệng áp-tơ), viêm họng (đau họng có mẩn đỏ và đôi khi cổ họng có lớp phủ trắng giống như ở cổ họng bị nhiễm trùng liên cầu). PFAPA thường khởi phát ở trẻ từ 2 đến 4 tuổi. Các chu kỳ thường giảm tần suất và hết sau 10 tuổi. Căn bệnh này được công nhận lần đầu tiên vào năm 1987 và được gọi là bệnh Marshall.

Nguyên nhân gây ra hội chứng PFAPA?

Nguyên nhân gây ra hội chứng này chưa được xác định chính xác. Không có khiếm khuyết gen nào được tìm thấy trong PFAPA, mặc dù trong một số trường hợp, có nhiều hơn một thành viên trong gia đình mắc bệnh. Không có nguyên nhân lây nhiễm nào được tìm thấy trong PFAPA, do đó nó không phải là một bệnh truyền nhiễm. Các quá trình viêm được kích hoạt trong các chu kỳ nhưng không rõ tại sao nó lại được kích hoạt.

Các triệu chứng chính của hội chứng PFAPA là gì?

Các triệu chứng chính của PFAPA là:

  • Cơn sốt theo chu kỳ
  • Đau họng
  • Loét miệng
  • Mở rộng các hạch bạch huyết cổ tử cung (các tuyến ở cổ, một phần quan trọng của hệ thống miễn dịch)

Các đợt sốt bắt đầu đột ngột và kéo dài từ 3 đến 7 ngày. Trong các đợt bệnh, trẻ thường rất mệt mỏi và xuất hiện ít nhất một trong ba triệu chứng nêu trên. Các đợt sốt tái phát vài tuần một lần và bố mẹ thường biết chính xác ngày bắt đầu cơn sốt. Vào ngày bắt đầu sốt, trẻ sẽ cảm thấy hơi ốm trước khi lên cơn và gia đình biết sắp tới chu kỳ sốt. Không phải trẻ nào cũng xuất hiện hết các triệu chứng, đặc biệt là bệnh nhiệt miệng. Một số trẻ em có các triệu chứng khác, như:

  • Đau khớp
  • Đau bụng
  • Đau đầu
  • Nôn mửa
  • Bệnh tiêu chảy

Nếu có nhu cầu tư vấn và thăm khám tại các Bệnh viện Vinmec thuộc hệ thống Y tế trên toàn quốc, Quý khách vui lòng đặt lịch trên website để được phục vụ.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe