Hình ảnh xquang của viêm thực quản bạch cầu ái toan

Viêm thực quản do bạch cầu ái toan là tình trạng viêm đặc trưng bởi tình trạng thâm nhiễm nhiều bạch cầu eosin trong thành thực quản, được công nhận lần đầu vào năm 1978. Trong đó, phương pháp chụp X-quang hình ảnh viêm thực quản được thực hiện với mục đích khảo sát và phát hiện các vấn đề bệnh lý, nhằm có hướng khám và điều trị kịp thời.

Bài viết này được viết dưới sự hướng dẫn chuyên môn của Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Bác sĩ nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park 

1. Thực quản và viêm thực quản

Thực quản là một ống cơ giúp cơ thể đẩy và nuốt thức ăn từ miệng vào dạ dày. Viêm thực quản xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó phổ biến nhất là trào ngược axit (acid reflux) gây ra cảm giác nóng ở vùng họng. Tuy nhiên, trào ngược axit cũng làm hình thành loét trên lớp trong của thực quản.

Một số nguyên nhân ít phổ biến hơn bao gồm virus (herpes simplex), nấm (candida), thuốc (như tetracycline) và xạ trị (được sử dụng trong điều trị ung thư phổi). Theo quan điểm của các bác sĩ, viêm thực quản do bạch cầu ái toan (VTQDBCAT) là một loại viêm thực quản phát sinh từ dị ứng, tương tự như các bệnh như hen phế quản, sốt, viêm mũi dị ứng và viêm da cơ địa (atopic dermatitis) cũng như một số tác nhân dị nguyên khác. 

Hình 1: Thực quản là một ống cơ nối từ miệng đến dạ dày.
Hình 1: Thực quản là một ống cơ nối từ miệng đến dạ dày.

2. Viêm thực quản do bạch cầu ái toan là gì?

Vào năm 1978, viêm thực quản do bạch cầu ái toan đã được công nhận là một tình trạng viêm, trong đó thành thực quản bị xâm nhập bởi một lượng lớn bạch cầu eosin.

Hình ảnh viêm thực quản do bạch cầu ái toan qua nội soi khá đa dạng, bao gồm những mảng trắng xuất dẹt, vòng đồng tâm, hẹp, niêm mạc mất mạng lưới mao mạch, thực quản mỏng như giấy, vòng Schatzki và giả túi thừa. Hình ảnh viêm thực quản khi siêu âm nội soi cho thấy thành thực quản dày.  

Phương pháp nội soi giúp đánh giá tình trạng hoạt động của bệnh bằng cách nhận diện tình trạng viêm (các dấu hiệu như phù nề, xuất tiết và rãnh dọc thực quản) cùng với tình trạng hẹp (vòng thực quản và hẹp). Điều này cho phép quyết định can thiệp bằng cách nong thực quản khi có chỉ định và theo dõi đáp ứng điều trị.

Tuy nhiên, nội soi cũng có những hạn chế nhất định như độ nhạy và độ đặc hiệu của hình ảnh viêm thực quản trên nội soi thay đổi theo mức độ nặng và số lượng tổn thương, đồng thời có từ 10 - 25% người bệnh cho thấy hình ảnh nội soi bình thường. 

Hình 2: Các vòng tròn theo chu vi thực quản – Hình ảnh viêm thực quản do bạch cầu ái toan điển hình.
Hình 2: Các vòng tròn theo chu vi thực quản – Hình ảnh viêm thực quản do bạch cầu ái toan điển hình.
Hình 3: Biến chứng hẹp thực quản trong viêm thực quản do bạch cầu ái toan.
Hình 3: Biến chứng hẹp thực quản trong viêm thực quản do bạch cầu ái toan.

3. Thuốc cản quang Barium hay Baryt là gì?

Hình ảnh ống tiêu hóa không được hiển thị rõ trên các phim chụp X quang thông thường. Tuy nhiên, khi người bệnh uống một chất lỏng màu trắng có chứa hóa chất Barium sulphate (BaSO4), hình ảnh của ống tiêu hóa trên (bao gồm thực quản, dạ dày và ruột non) sẽ trở nên rõ ràng hơn trên phim X quang vì tia X không xuyên qua Barium.

Ngoài ra, người bệnh cũng có thể cần thực hiện một hoặc nhiều kiểm tra được liệt kê dưới đây tùy thuộc vào vị trí của ống tiêu hóa muốn xem xét. Barium sẽ tạo ra một lớp bám vào niêm mạc của ống tiêu hóa khi uống vào. Điều này cho phép quan sát các bất thường liên quan đến lớp niêm mạc hoặc cấu trúc của ống tiêu hóa qua hình ảnh X quang.

Ở mỗi kiểm tra sau, các hình ảnh X quang được thực hiện với liều lượng tia X thấp. Tổng bức xạ nhận được cho mỗi khảo sát là khá nhỏ và được đánh giá là an toàn. Máy X quang được nối với một TV theo dõi (TV monitor). Nếu cần thiết, bác sĩ sẽ xem xét việc thực hiện hình ảnh chụp nhanh liên tiếp hoặc video X quang.

4. Chụp X-quang thực quản cản quang với Baryt (Baryt swallow) là gì?

Người bệnh sẽ thực hiện một cuộc kiểm tra, trong đó họ sẽ uống một loại chất lỏng chứa Baryt. Chất lỏng này có hương vị trái cây, giúp tạo cảm giác thoải mái khi uống. Người bệnh sẽ đứng trước máy X quang để được chụp X quang trong khi thực hiện nuốt chất lỏng này.  

Mục tiêu của phương pháp này là phát hiện các vấn đề ở thực quản như: Hẹp thực quản, thoát vị hoành, khối u, trào ngược dạ dày thực quản và rối loạn nuốt. Người bệnh thường được khuyên không nên ăn uống trong vài giờ trước khi làm khảo sát. Thời gian để thực hiện phương pháp X quang thực quản cản quang với Baryt mất khoảng 10 phút. 

Để thực hiện X quang thực quản cản quang với Baryt, người bệnh sẽ mất khoảng 10 phút.
Để thực hiện X quang thực quản cản quang với Baryt, người bệnh sẽ mất khoảng 10 phút.

4.1. Hình ảnh X quang thực quản cản quang bình thường

Ở thực quản bình thường, bờ rõ nét, các nếp niêm mạc sắp xếp song song với nhau và được chia thành ba đoạn:

  • Đoạn cổ ngắn.
  • Đoạn ngực dài nhất nằm ngay cạnh bờ sau tim, có hai dấu ấn do động mạch chủ và phế quản gốc trái đè vào.
  • Đoạn bụng rất ngắn, sau khi chui qua lỗ hoành và kết thúc bởi tâm vị, đổ vào mặt sau - trong phình vị lớn dạ dày và tạo với phần này một góc nhọn đó là góc His, có chức năng chống trào ngược dạ dày - thực quản. 
Hình 4: Hình ảnh X quang thực quản cản quang bình thường.
Hình 4: Hình ảnh X quang thực quản cản quang bình thường.

4.2. Hình ảnh X quang thực quản cản quang của bệnh lý viêm thực quản do bạch cầu ái toan được thể hiện như thế nào?

Chụp X quang với thuốc cản quang Baryt thực quản là một trong những phương pháp chẩn đoán hình ảnh viêm thực quản bạch cầu ái toan được sử dụng rộng rãi nhất, đặc biệt đối với người bệnh gặp phải triệu chứng nuốt khó hoặc nghẹn.

Hình ảnh xquang của viêm thực quản bạch cầu ái toan với thuốc cản quang Baryt cho thấy các vòng hoặc hẹp thực quản. Tuy nhiên, kỹ thuật này không thể đánh giá các tổn thương niêm mạc thực quản khi so sánh với nội soi. 

Hình 5. Hình ảnh các vòng thực quản trên chụp Baryt, tương ứng với các vòng tròn đồng tâm của thực quản được nhìn thấy trên nội soi.
Hình 5. Hình ảnh các vòng thực quản trên chụp Baryt, tương ứng với các vòng tròn đồng tâm của thực quản được nhìn thấy trên nội soi.
Hình 6: Hình ảnh các vòng thực quản trên chụp Baryt ở một bệnh nhân bị viêm thực quản bạch cầu ái toan (Nguồn: abdominalkey.com).
Hình 6: Hình ảnh các vòng thực quản trên chụp Baryt ở một bệnh nhân bị viêm thực quản bạch cầu ái toan (Nguồn: abdominalkey.com).
Hình 7. Hình ảnh các vòng thực quản trên chụp Baryt, vòng thực quản cũng là hình ảnh xquang của viêm thực quản bạch cầu ái toan hay gặp với nhiều thuật ngữ được sử dụng như “khí quản hóa thực quản” hay “thực quản dạng vòng”. (Nguồn: en.wikipedia.org).
Hình 7. Hình ảnh các vòng thực quản trên chụp Baryt, vòng thực quản cũng là hình ảnh xquang của viêm thực quản bạch cầu ái toan hay gặp với nhiều thuật ngữ được sử dụng như “khí quản hóa thực quản” hay “thực quản dạng vòng”. (Nguồn: en.wikipedia.org).

Một nghiên cứu trên người bệnh hẹp thực quản do bạch cầu ái toan cho thấy tỷ lệ phát hiện hẹp thông qua chụp Baryt lên tới 71%. Hầu hết các trường hợp hẹp này xảy ra ở đoạn dưới thực quản. Trong khi đó, một nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng đoạn hẹp thường tập trung ở phía trên hoặc đoạn ngực của thực quản. 

Hình 8: Hình ảnh hẹp thực quản do viêm thực quản bạch cầu ái toan (Nguồn: learningradiology.com).
Hình 8: Hình ảnh hẹp thực quản do viêm thực quản bạch cầu ái toan (Nguồn: learningradiology.com).
Hình 9: Hẹp lan tỏa, co thắt thực quản và vòng tròn đồng tâm (Nguồn: radiologykey.com).
Hình 9: Hẹp lan tỏa, co thắt thực quản và vòng tròn đồng tâm (Nguồn: radiologykey.com).

Đoạn hẹp của thực quản thường có đường kính trung bình khoảng 1cm với vị trí hẹp ở phần trên hoặc giữa, có xu hướng kéo dài hơn so với đoạn dưới. Khi thực hiện chụp Baryt cần xem xét các chẩn đoán phân biệt khác nhau tùy theo vị trí của đoạn hẹp.

Các nguyên nhân khác dẫn đến hẹp ở đoạn thực quản trên hoặc giữa bao gồm thực quản Barrett, xạ trị tại vùng trung thất cũng như việc sử dụng một số loại thuốc như NSAID hay quinidine. Trong khi đó, hẹp ở đoạn dưới thực quản xuất phát từ viêm thực quản trào ngược.

Người bệnh có hình ảnh hẹp thực quản khi chụp Baryt thường gặp phải triệu chứng nuốt khó. Dù đây là một dấu hiệu gợi ý nhưng cần phải kết hợp với nhiều yếu tố khác nhau như bệnh sử, triệu chứng lâm sàng, hình ảnh nội soi và mô bệnh học.

Hình ảnh vòng thực quản cũng thường gặp với nhiều thuật ngữ khác nhau như “khí quản hóa thực quản” hay “thực quản dạng vòng”. Vị trí và sự phân bố của các vòng thực quản có sự khác biệt lớn khi nội soi, có thể nằm ở các đoạn khác nhau của thực quản hoặc phân bố lan tỏa nhiều chỗ.

Đôi khi, những vòng này gây hẹp khiến dây sợi khó đưa qua được. Khi chụp Baryt, các vòng này thường xuất hiện nhiều, gần nhau và có dạng đồng tâm dọc theo lòng thực quản. 

Hình 10: Hình ảnh hẹp thực quản do Herpes ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch mắc phải (Nguồn: radiologykey.com).
Hình 10: Hình ảnh hẹp thực quản do Herpes ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch mắc phải (Nguồn: radiologykey.com).
Hình 11: Hẹp thực quản do viêm thực quản sau xạ trị (Nguồn: radiologykey.com).
Hình 11: Hẹp thực quản do viêm thực quản sau xạ trị (Nguồn: radiologykey.com).
Hình 12: Hẹp thực quản do viêm thực quản trào ngược (Nguồn: radiologykey.com).
Hình 12: Hẹp thực quản do viêm thực quản trào ngược (Nguồn: radiologykey.com).
Hình 13 : Hình ảnh viêm thực quản do Cytomegalovirus (Nguồn: radiologykey.com).
Hình 13 : Hình ảnh viêm thực quản do Cytomegalovirus (Nguồn: radiologykey.com).

Trong những năm gần đây, nghiên cứu về ứng dụng chụp cắt lớp vi tính và siêu âm nội soi trong việc đánh giá viêm thực quản do bạch cầu ái toan đã gia tăng. Hình ảnh viêm thực quản từ chụp cắt lớp vi tính cho thấy sự dày lên của thành thực quản.

Một số hình ảnh thu được từ siêu âm nội soi thể hiện các lớp bình thường của thành thực quản, sự dày lan tỏa của thành thực quản do tình trạng viêm, xơ hóa xâm lấn qua các lớp hoặc dày khu trú ở lớp cơ niêm và lớp dưới niêm mạc.

Viêm thực quản do bạch cầu ái toan dù có những hình ảnh viêm thực quản đặc trưng nhưng vẫn cần được phân biệt với các hình ảnh viêm hẹp do thực quản Barrett, xạ trị ở vùng trung thất và một số thuốc như NSAID, quinidine. Việc nội soi và sinh thiết để làm mô bệnh học là cần thiết nhằm xác định chẩn đoán. 

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. 

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe