Độ nhớt của máu là gì? Ý nghĩa của đo độ nhớt của máu

Độ nhớt của máu do hồng cầu và thành phần protein trong huyết tương quyết định. Đo độ nhớt của máu rất có giá trị trong đánh giá các bệnh lý huyết khối.

1. Đặc điểm sinh hóa của máu

Máu là một mô lỏng có màu đỏ, vị mặn, được hình thành cùng với hệ mạch, là thành phần tổ chức quan trọng của cơ thể, thể tích máu bằng 1/13 trọng lượng cơ thể. Mô máu bao gồm các tế bào máu là hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và dịch ngoại bào là huyết tương. Máu được lưu thông bên trong các tĩnh mạch, động mạch và thực hiện nhiều chức năng sinh lý quan trọng. Chức năng chính của máu là bảo vệ, bài tiết, điều hòa và dinh dưỡng.

Máu đóng vai trò quan trọng trong quá trình hô hấp, vận chuyển O2 từ phổi tới các tế bào và mô, đồng thời đưa CO2 từ các tế bào tới phổi thải ra ngoài. Máu bảo vệ cơ thể nhờ bạch cầu, kháng thể và hệ thống đệm, tham gia điều hòa các chức phận và quá trình hóa học của cơ thể nhờ khả năng dẫn truyền các nội tiết tố. Máu duy trì áp suất thẩm thấu và thăng bằng kiềm toan.

Tính chất lý hóa của máu đặc trưng bởi tỷ trọng của máu, độ nhớt, áp suất thẩm thấu. Độ nhớt của máu gấp 4-6 lần độ nhớt của nước, nó phụ thuộc vào số lượng hồng cầu. Nếu độ nhớt máu tăng sẽ làm cho máu không thể chảy được tự do trong động mạch, giảm lưu lượng máu đến các cơ quan như tim, thận, não,... Độ nhớt của máu có liên quan đến nhiều bệnh lý phối hợp với biến chứng huyết khối.


Mô máu bao gồm các tế bào máu là hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và dịch ngoại bào là huyết tương
Mô máu bao gồm các tế bào máu là hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và dịch ngoại bào là huyết tương

2. Độ nhớt của máu là bao nhiêu?

Độ nhớt của máu được quyết định bởi hồng cầu và thành phần protein trong huyết tương. Giá trị bình thường của độ nhớt máu là 2,3 - 4,1 centipoise ở 37 độ C. Độ nhớt tăng khi cơ thể mất nước do tiêu chảy, mất nhiều mồ hôi trong lao động hoặc cảm đột ngột,...

Trong trường hợp mất nhiều nước không những làm thay đổi độ nhớt mà còn kèm theo sự giảm huyết áp và các thành phần nội môi mất cân bằng, do đó cần phải được tiếp dung dịch sinh lý cho cơ thể

Độ nhớt của máu phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như:

  • Số lượng các thành phần tế bào: tình trạng đa hồng cầu hay tăng tiểu cầu hay tăng số lượng bạch cầu nặng đều có thể làm tăng độ nhớt của máu.
  • Mức độ cô đặc máu: tình trạng cô đặc máu thường đi kèm với tăng độ nhớt của máu.
  • Khả năng biến dạng của hồng cầu: đường kính trung bình của mao mạch nói chung < 5 μ, trong khi đó đường kính trung bình của hồng cầu là 7- 8 μ. Do đó, hồng cầu phải thay đổi hình dạng để thích nghi, có thể đi qua các mao mạch ngoại vi. Một số bệnh lý làm biến dạng hồng cầu như: thiếu máu hồng cầu hình liềm đi kèm với giảm khả năng thay đổi hình dạng của các hồng cầu với tăng thứ phát độ nhớt của máu.
  • Khả năng kết tập của hồng cầu: Các protein ngưng tập có khả năng kết nối các hồng cầu lại với nhau để tạo các cuộn hồng cầu là fibrinogen, các globulin, các lipoprotein tỷ trọng rất thấp và các phức hợp miễn dịch lưu hành. Các hồng cầu kết tập này gây giảm dòng chảy của máu và làm tăng độ nhớt của máu.
  • Độ nhớt huyết tương: tăng protein có trọng lượng phân tử cao làm tăng độ nhớt huyết tương, vì vậy làm tăng độ nhớt máu. Ngoài ra, các protein này gây hình thành các cuộn hồng cầu và dễ làm xuất hiện các biến chứng huyết khối.

Độ nhớt của máu được quyết định bởi hồng cầu và thành phần protein trong huyết tương
Độ nhớt của máu được quyết định bởi hồng cầu và thành phần protein trong huyết tương

3. Ý nghĩa của đo độ nhớt của máu

Có nhiều bệnh lý thường phối hợp với biến chứng huyết khối và đi kèm với tình trạng tăng độ nhớt của máu, tăng kết tập hồng cầu hay giảm khả năng thay đổi hình dạng của hồng cầu. Trong số các bệnh lý này, có thể kể tới bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp hay tăng lipid máu. Tuy nhiên thường khó xác định các bất thường được phát hiện thực sự là nguyên nhân hay hậu quả của các tai biến huyết khối trên lâm sàng.

Xét nghiệm đo độ nhớt của máu rất có giá trị trong đánh giá các bệnh lý huyết khối. Đặc biệt có giá trị đối với những bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, tăng cholesterol, đa hồng cầu, viêm động mạch chi dưới, và tăng gamaglobulin máu... Xét nghiệm hữu ích để phát hiện hội chứng tăng độ nhớt máu hay để quyết định một lựa chọn điều trị.

Máu đảm nhận nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể. Một trong số tính chất lý hóa quan trọng của máu là độ nhớt của máu, được quyết định bởi hồng cầu và thành phần protein trong huyết tương. Do đó, xét nghiệm đo độ nhớt của máu rất có giá trị trong đánh giá các bệnh lý huyết khối.

XEM THÊM:

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe