Chấn thương sọ não và các bệnh tâm thần

Chấn thương sọ não (TBI) có thể gây ra bệnh tâm thần. Bằng chứng rất thuyết phục cho mối liên hệ chặt chẽ giữa TBI với các rối loạn tâm trạng và lo âu. Lạm dụng chất gây nghiện và tâm thần phân liệt không liên quan chặt chẽ đến TBI. Thiếu bằng chứng cho một gradient sinh học, nhưng một gradient như vậy có thể không liên quan đến TBI. Có bằng chứng cho trình tự thời gian chính xác. Bằng chứng sơ bộ cho thấy cơ sở lý luận sinh học của TBI gây ra bệnh tâm thần.

1. Chấn thương sọ não có mối liên quan gì đến các bệnh tâm thần?

Chấn thương sọ não (TBI) từ lâu đã được biết là có liên quan đến những thay đổi về tâm trạng, tính cách và hành vi. Nghiên cứu cho thấy cũng đã đóng góp vào giả thuyết rằng các yếu tố liên quan trực tiếp đến TBI có thể là nguyên nhân của những thay đổi này. Tuy nhiên, phần lớn nghiên cứu này dựa trên đánh giá theo chiều của các triệu chứng và không bao gồm đánh giá về sự hiện diện hay vắng mặt của các rối loạn tâm thần. TBI được một số người coi là một yếu tố nguy cơ gây rối loạn tâm thần.

Việc thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa TBI và các rối loạn tâm thần là rất quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về những di chứng có thể có của TBI, và nó cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cơ chế bệnh sinh của những căn bệnh này. Nếu cho thấy rằng TBI gây ra bệnh tâm thần, điều này nên cảnh báo cho các bác sĩ lâm sàng để quan sát hoặc cố gắng ngăn chặn những kết quả này. Một phát hiện nhân quả như vậy cũng sẽ có vai trò trong việc kiện tụng liên quan đến kết quả sau TBI. Thay vì phát hiện ra như đôi khi trong trường hợp, rằng những khó khăn sau TBI của một cá nhân là thứ phát của bệnh tâm thần hơn là do TBI, sẽ thích hợp hơn khi coi những khó khăn của người đó là thứ phát sau rối loạn tâm thần mà sau đó là thứ phát TBI. Việc xác định rõ ràng vai trò gây bệnh tâm thần của TBI trong việc tạo ra các bệnh tâm thần là rất quan trọng từ quan điểm lâm sàng, khoa học và pháp lý.

Lập luận về nguyên nhân gây bệnh tâm thần thường rất khó vì yếu tố gây bệnh giả định có thể khó đánh giá hoặc có thể bị nhầm lẫn bởi sự hiện diện của các yếu tố gây bệnh đồng thời và có khả năng gây bệnh khác. Đây chắc chắn là trường hợp của TBI, trong đó sự xúc phạm đối với não có thể khó phát hiện và có thể đi kèm với một loạt các yếu tố khác như đau đớn, mất mát và tuyệt vọng. Tuy nhiên, cách đây không lâu, chúng tôi cũng đã tự hỏi về mối quan hệ nhân quả giữa các sinh vật cực nhỏ mới được phát hiện được trồng trong đĩa petri và dịch bệnh truyền nhiễm tàn phá. Sự tương tự này có lẽ là phù hợp, vì rõ ràng TBI có thể gây thương tích cho não ở cấp độ vi mô và đã được mô tả là xảy ra với tỷ lệ dịch bệnh.


Chấn thương sọ não có khả năng gây ra rối loạn tâm thần
Chấn thương sọ não có khả năng gây ra rối loạn tâm thần

2. Chấn thương sọ não là gì?

Chấn thương sọ não (TBI) xảy ra khi một cuộc tấn công vật lý đột ngột, bên ngoài, làm tổn thương não. TBI xảy ra khi một lực bên ngoài phá vỡ chức năng bình thường của não (gây nên bệnh tâm thần). Té ngã, đụng xe, hành hung, và bị đánh hoặc giáng vào đầu là những nguyên nhân phổ biến nhất của TBI. TBI nặng luôn bao gồm giai đoạn bất tỉnh. Trong thời gian này, người đó sẽ không thể tỉnh táo. Trẻ sẽ không thể tương tác với môi trường xung quanh một cách có mục đích, chẳng hạn như tiếp cận một đồ vật.

3. Chấn thương sọ não nặng ảnh hưởng như nào đến tâm thần?

Một tình trạng hôn mê là một trạng thái bất tỉnh hoàn toàn. Những người ở trạng thái này không thể bị đánh thức. Họ không thể nhìn thấy vì mắt họ nhắm, và họ có thể không phản ứng với âm thanh, xúc giác hoặc cảm giác đau. Họ không thể giao tiếp, làm theo mệnh lệnh, thể hiện cảm xúc hoặc tham gia vào các hành vi có mục đích.

Những người ở trạng thái thực vật vẫn chưa tỉnh nhưng có thể có lúc tỉnh. Họ có thể bắt đầu mở mắt. Đây còn được gọi là “Hội chứng tỉnh táo không phản ứng”. Chúng có thể phản ứng nhanh với âm thanh, tầm nhìn hoặc chạm vào và thậm chí có thể khóc, cười hoặc biểu hiện trên khuôn mặt. Nhưng những phản ứng này là phản xạ và không nằm trong tầm kiểm soát của người đó. Giống như hôn mê, những người ở trạng thái thực vật không thể biểu lộ cảm xúc hoặc tham gia vào các hành vi có mục đích. Những người ở trạng thái thực vật không nhận thức được bản thân hoặc môi trường xung quanh (khác với bệnh tâm thần). Họ không thể giao tiếp hoặc làm theo các lệnh. Từ thực dưỡng không có nghĩa là con người là một “loại rau”. Nó đề cập đến các chức năng "thực vật" hoặc tự động vẫn được điều khiển bởi não, chẳng hạn như thở, chức năng tim và tiêu hóa.

Mọi người ở trạng thái ý thức tối thiểu bắt đầu tỉnh lại. Họ có thể có một số nhận thức về bản thân hoặc môi trường xung quanh nhưng không phải lúc nào cũng có. Những người ở trạng thái ý thức tối thiểu thỉnh thoảng có thể tham gia vào các hành vi có mục đích. Ví dụ, họ có thể làm theo một lệnh đơn giản, nhìn mọi người hoặc đồ vật xung quanh hoặc giữ mất tập trung vào người hoặc đồ vật đang chuyển động (gần như bênh tâm thần). Họ có thể với lấy hoặc cố gắng sử dụng một đồ vật thông thường, chẳng hạn như bàn chải tóc. Họ có thể thể hiện những phản ứng cảm xúc phù hợp hoặc cố gắng giao tiếp thông qua cử chỉ hoặc nói chuyện.

Nổi lên từ trạng thái ý thức tối thiểu đề cập đến những người có thể giao tiếp nhất quán hoặc sử dụng ít nhất hai đối tượng một cách có mục đích. Trong giai đoạn này, chúng có thể trả lời chính xác những câu hỏi đơn giản bằng cách nói hoặc ra hiệu cho những câu trả lời như “có” và “không”. Họ cũng có thể làm theo hướng dẫn và thực hiện các tác vụ đơn giản.

Khi một người tỉnh lại, họ có thể rơi vào trạng thái hoang mang sau chấn thương. Trạng thái phục hồi này có thể bao gồm một tình trạng được gọi là chứng hay quên sau chấn thương. Những người ở trạng thái này bối rối và gặp vấn đề trong việc hình thành những ký ức mới. Họ có thể không thể đi lại hoặc nói chuyện, nhớ lại ký ức hoặc nhận ra những người mà họ biết. Thông thường, mọi người không thể nhớ họ đang ở đâu hoặc chuyện gì đã xảy ra. Họ không thể nhớ các chi tiết hoặc sự kiện hàng ngày. Họ không thể thực hiện các nhiệm vụ dài dòng. Họ có thể ngủ nhiều vào ban ngày nhưng lại khó ngủ vào ban đêm. Họ có thể bồn chồn hoặc kích động. Những người ở trạng thái này cũng có thể làm những việc không an toàn, chẳng hạn như kéo ống thở và cho ăn hoặc cố gắng đứng dậy mà không cần sự trợ giúp.


Chấn thương sọ não gây ra trạng thái hoang mang
Chấn thương sọ não gây ra trạng thái hoang mang

4. Biến chứng thần kinh sau chấn thương sọ não

4.1. Trầm cảm, thần kinh

Bệnh trầm cảm, thần kinh sau chấn thương sọ não hay bệnh tâm thần làm ảnh hưởng đến sinh hoạt rồi nhận thức trong cuộc sống. Trầm cảm liên quan đến TBI được đặc trưng bởi cảm giác buồn dai dẳng, kéo dài kết hợp với các triệu chứng khác như giảm trương lực cơ, thiếu động lực, giảm khả năng tự chăm sóc, giấc ngủ thay đổi hoặc kiểu thèm ăn, cảm giác vô vọng hoặc ý nghĩ tự tử. Những triệu chứng này có thể kéo dài vài tuần đến vài tháng (giai đoạn trầm cảm nặng) hoặc tồn tại ở dạng nhẹ hơn trong hai năm trở lên (rối loạn nhịp tim).

Thuốc ức chế monoamine oxidase (MAOIs) cũng có thể được xem xét ở những người mắc chứng trầm cảm ngoan cố. Tuy nhiên, nhu cầu hạn chế chế độ ăn uống có thể là một thách thức vì việc tuân thủ một chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt có thể khó khăn đối với những bệnh nhân TBI bị suy giảm nhận thức.

4.2. Tự tử

Tự tử liên quan đến chấn thương sọ não. Nguy cơ tự tử, cố gắng tự sát và ý định tự sát tăng lên ở những người sống sót sau TBI so với dân số chung, ngay cả sau khi điều chỉnh các bệnh tâm thần đi kèm.

Như trong các trường hợp có ý định tự tử khác, yếu tố quan trọng nhất trong việc quản lý hành vi tự sát liên quan đến TBI là duy trì sự an toàn. Cần cân nhắc việc nhập viện ngay lập tức đối với những bệnh nhân có ý định tự tử chủ động với ý định hoặc dự định chết. Quản lý các ý nghĩ tự sát liên quan đến rối loạn tâm thần sau TBI nên tập trung vào chính các rối loạn tâm thần đó. Cần thận trọng hơn nữa để tối đa hóa sự an toàn không chỉ ở cơ sở bệnh nhân nội trú mà còn ở cơ sở bệnh nhân ngoại trú, đảm bảo rằng bệnh nhân được chăm sóc ngoại trú nhất quán và có một mạng lưới hỗ trợ mạnh mẽ.

4.3. Chứng hưng cảm sau TBI

Tỷ lệ mắc các rối loạn phổ lưỡng hay bệnh tâm thần nói chung cực thấp trong dân số TBI, với khoảng từ 2% đến 9% trong năm đầu tiên sau khi bị thương. nguy cơ rối loạn lưỡng cực trong dân số nói chung.

Chứng hưng cảm TBI được đặc trưng bởi những thay đổi về tâm trạng, giấc ngủ và sự kích hoạt, có thể biểu hiện như cáu kỉnh, hưng phấn, mất ngủ, kích động, hung hăng, bốc đồng hoặc thậm chí là hành vi bạo lực. Có rất ít tài liệu về quản lý dược lý của chứng hưng cảm do TBI.

Các chuyên gia y tế khuyên bạn nên sử dụng quetiapine như một tác nhân đầu tiên và risperidone như một tác nhân thứ hai cho chứng hưng cảm cấp tính, nên sử dụng valproate như một chất đầu tiên và carbamazepine như một chất thứ hai để bảo trì. Mặc dù nhiều nhà tâm thần học có thể cho rằng lithium là tiêu chuẩn vàng để điều trị rối loạn lưỡng cực vô căn, chúng tôi lo ngại về tác dụng phụ của thần kinh trung ương và vận động ở những người bị TBI.


Chấn thương sọ não gây ra chứng hưng cảm
Chấn thương sọ não gây ra chứng hưng cảm

4.4. Rối loạn lo âu liên quan đến TBI

Một loạt các rối loạn lo âu có thể xảy ra sau khi bị TBI bao gồm rối loạn lo âu tổng quát, sợ mất trí nhớ, ám ảnh sợ xã hội, rối loạn hoảng sợ và rối loạn ám ảnh cưỡng chế.

Các loại thuốc thường được sử dụng để điều trị chứng lo âu bao gồm sertraline, escitalopram, citalopram và venlafaxine với liều lượng tương tự như điều trị trầm cảm hay bệnh tâm thần liên quan đến TBI.

4.5. Rối loạn giấc ngủ

Rối loạn giấc ngủ thường gặp sau TBI và có thể xảy ra riêng lẻ hoặc như một triệu chứng của bệnh tâm thần. Mất ngủ là rối loạn giấc ngủ phổ biến nhất, gặp ở khoảng 50% bệnh nhân TBI, mặc dù các rối loạn khác như mất ngủ, ngưng thở khi ngủ và mộng du cũng có thể xuất hiện. Điều trị rối loạn giấc ngủ TBI khác nhau tùy theo loại rối loạn giấc ngủ và các bệnh đi kèm liên quan. Đánh giá y tế toàn diện bao gồm nghiên cứu giấc ngủ qua đêm có thể giúp chẩn đoán rối loạn giấc ngủ. Việc duy trì vệ sinh giấc ngủ luôn được đặt lên hàng đầu trong việc kiểm soát rối loạn giấc ngủ. Khi rối loạn giấc ngủ đi kèm với rối loạn tâm thần, điều quan trọng là phải điều trị rối loạn tâm thần cơ bản.

Khi mất ngủ xảy ra cách ly, hãy cân nhắc sử dụng thuốc thôi miên không phải benzodiazepine như zolpidem trong một thời gian ngắn. Các tác nhân khác như melatonin, amitriptyline, lorazepam và zopiclone cũng có thể được xem xét. Benzodiazepine nên tránh thứ phát vì có nguy cơ gây nghiện, các tác dụng phụ về vận động và nhận thức, và các cơn thịnh nộ nghịch lý. Ở những bệnh nhân bị TBI bị buồn ngủ ban ngày quá mức, trước tiên cần loại trừ chứng ngưng thở khi ngủ. Modafinil (100-400 mg) hoặc armodafinil (150-300 mg) có thể được xem xét ở những bệnh nhân buồn ngủ ban ngày dai dẳng và không giải thích được.

Xem thêm: Hướng dẫn chẩn đoán chấn thương sọ não

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe