Viêm thực quản trào ngược là một bệnh lý đã được biết đến từ khá lâu trên thế giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, căn bệnh này chỉ mới được chú ý trong thời gian gần đây khi số lượng ca mắc mới ngày càng tăng. Các dấu hiệu của bệnh thường dễ bị bỏ qua hoặc bị nhầm lẫn với các bệnh lý khác. Vì thế, bệnh nhân thường chỉ phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn nặng.
Bài viết này được viết dưới sự hướng dẫn chuyên môn của Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Bác sĩ nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
1. Tổng quan về bệnh
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) còn gọi là viêm thực quản trào ngược. Thực quản là khu vực nằm trong hệ tiêu hoá nối giữa miệng và dạ dày. Khi GERD xảy ra, axit dạ dày sẽ trào ngược từ dạ dày lên thực quản. Từ đó, bệnh gây ra một số tình trạng như ợ nóng hoặc một vài vấn đề về hệ tiêu hoá.

Những đợt trào ngược thường xảy ra sau bữa ăn, trong thời gian ngắn, không kèm theo các triệu chứng khác và GERD hiếm khi xảy ra trong lúc ngủ.
Theo thời gian, các cơn trào ngược bình thường sẽ trở thành viêm thực quản trào ngược. Lúc này, các triệu chứng xảy ra thường xuyên và khiến cho thực quản bị tổn thương.
Khi mắc viêm thực quản trào ngược, người bệnh thường có 4 triệu chứng thường gặp bao gồm:
- Ợ nóng: Ợ nóng là triệu chứng thường gặp nhất ở người bị GERD. Triệu chứng này xảy ra do các thành phần của dịch dạ dày trào ngược lên thực quản. Bệnh nhân sẽ có cảm giác nóng rát từ vùng thượng vị và lan dần lên phía sau xương ức, có khi lên tới cổ họng. Ợ nóng thường xảy ra sau khi ăn, khi nằm xuống hoặc ưỡn người về phía trước.
- Ợ chua: Dịch dạ dày và các thành phần axit trong dạ dày, thực quản trào ngược lại khu vực hầu họng, từ đó gây ợ chua.
- Khàn giọng, ho: Dịch axit trào lên lâu ngày sẽ gây tổn thương, viêm cho niêm mạc, hầu họng. Tình trạng này xảy ra lâu dài sẽ gây khàn giọng và ho.
- Nuốt khó: Triệu chứng khó nuốt xuất hiện rất phổ biến, chiếm tới ⅓ số người bị GERD. Khó nuốt là cảm giác thức ăn hoặc đồ uống dừng lại ở phía sau xương ức ngay khi nuốt. Tuy nhiên, khó nuốt hoặc dễ nghẹn cũng là triệu chứng của ung thư thực quản. Vì vậy, người bệnh cần cảnh giác trước tình trạng này.
Bên cạnh đó, còn có một số triệu chứng không điển hình khác của GERD bao gồm:
- Nôn, ợ hơi.
- Tăng tiết nước bọt.
- Hen phế quản.
- Mòn răng do axit.
- Thở khò khè.
- Viêm xoang.
- Viêm tai giữa.
Ngoài ra, có một số dạng rối loạn khác cũng gây ra các triệu chứng giống GERD. Có thể kể đến như:
- Viêm thực quản do thuốc.
- Viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan (EoE).
- Viêm thực quản nhiễm trùng.
- Co thắt tâm vị.
Nhiều trường hợp người bệnh không biết mình đã mắc GERD và gây ra ho. Do đó, bệnh nhân không đi khám và tự mua thuốc trị ho, đau họng để uống. Hệ quả là tình trạng ho vẫn không giảm dù đã uống thuốc rất lâu. Thậm chí, GERD còn gây ra bệnh dạ dày vì người bệnh uống quá nhiều thuốc.

2. Viêm thực quản trào ngược kháng trị
Trào ngược dạ dày thực quản là một rối loạn đường tiêu hoá trên, được định nghĩa là các triệu chứng hoặc tổn thương do dòng chảy trào ngược của các chất ở dạ dày vào thực quản.
Phương pháp điều trị chính của GERD là sử dụng thuốc ức chế bơm proton (PPI). Về mặt hoá học, tất cả các PPI đều bao gồm một vòng benzimidazole và một vòng pyridine. Tuy nhiên, các PPI sẽ khác nhau về sự thay thế vòng bên.
Khi vào cơ thể, thuốc sẽ biến các axit thành sulfonamid, từ đó liên kết với dư lượng cysteine trên bề mặt sáng của các bơm proton H + / K + ATPase trong tế bào thành. Quá trình này sẽ giúp ngăn chặn sự vận chuyển ion và bài tiết axit trong dạ dày, qua đó cải thiện tình trạng bệnh.
Mặc dù PPI là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho GERD và các biến chứng của bệnh nhưng có tới 40% bệnh nhân mắc trào ngược dạ dày không ăn mòn (NERD) vẫn còn xuất hiện triệu chứng của bệnh.
Không chỉ thế, khoảng 15% bệnh nhân bị viêm thực quản ăn mòn không thuyên giảm hoàn toàn sau 8 tuần điều trị bằng PPI.
Nhiều bệnh nhân vẫn còn triệu chứng mặc dù đã điều trị bằng PPI được coi là mắc GERD kháng trị. Viêm thực quản trào ngược kháng trị xảy ra khi bệnh nhân không đáp ứng với điều trị bằng thuốc PPI trong 12 tuần và vẫn còn các triệu chứng điển hình của GERD.
Theo thống kê, có tới 30% bệnh nhân mắc viêm thực quản trào ngược bị GERD kháng trị.
Một số nguyên nhân gây ra tình trạng GERD kháng trị bao gồm:
- Rối loạn chức năng thực quản.
- Hội chứng ruột kích thích (IBS).
- Thực quản tăng nhạy cảm.
- Trào ngược không có axit hoặc có tính axit yếu.
- Trào ngược dạ dày tá tràng.
- Tăng tiết axit về đêm, túi axit.
- Chuyển hoá PPI quá nhanh.
- Viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan.
- Chậm làm rỗng dạ dày.
- Rối loạn chức năng thực quản.
Có một điều cần lưu ý là các nguyên nhân tiềm ẩn của GERD kháng trị. Các nguyên nhân tiềm ẩn của GERD kháng trị sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố như:
- Tỷ lệ mắc bệnh.
- Tầm quan trọng về lâm sàng.
- Mức độ và tần suất của các triệu chứng bệnh.
GERD kháng trị có một số biểu hiện phổ biến bao gồm rối loạn chức năng ruột, dư axit và trào ngược axit yếu. Các yếu tố về chuyển hoá, hoá sinh cũng đóng một vai trò quan trọng trong GERD kháng trị.

3. Một số tình trạng liên quan đến viêm thực quản trào ngược và PPI
3.1 Viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan
Viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan (EoE) là một bệnh mãn tính thuộc hệ miễn dịch. Bệnh đặc trưng bởi tình trạng rối loạn chức năng thực quản và viêm bạch cầu ái toan phức tạp.
Việc phân biệt giữa EoE và viêm thực quản trào ngược (GERD) là một sự thách thức. Bởi lẽ, hai tình trạng này đều liên quan đến chứng ợ nóng, khó nuốt, đau ngực, tăng bạch cầu ái toan thực quản và đều đáp ứng điều trị với PPO.
Hiện tại, các chuyên gia vẫn chưa rõ liệu GERD và EoE có tồn tại độc lập hay không, hay có thể gây ra một số vấn đề khác. Một nghiên cứu mới càng làm phức tạp thêm mối quan hệ này khi cho thấy rằng, PPI có thể khiến bệnh nhân mắc bệnh EoE bằng cách thay đổi các phản ứng miễn dịch của niêm mạc. Từ đó, bệnh nhân tăng khả năng tiếp xúc với các chất gây dị ứng thực phẩm.
Ước tính, tỷ lệ mắc EoE ở bệnh nhân bị viêm thực quản trào ngược kháng trị rất hạn chế, dao động từ 1 đến 15%. Trong một nghiên cứu trên 130 bệnh nhân bị ợ chua dai dẳng và nôn trớ mặc dù đã được điều trị bằng omeprazole 6 tuần, chỉ một bệnh nhân được phát hiện có tổn thương qua nội soi chỉ ra bệnh EoE.
Tương tự, một nghiên cứu trên 105 bệnh nhân ợ chua kháng PPI cho thấy, chỉ 0,9% bệnh nhân có EoE khi tiến hành nội soi. Nhìn chung, EoE là tình trạng rối loạn tương đối hiếm gặp và không có khả năng gây ra các triệu chứng của GERD kháng trị PPI.
3.2 Nhiễm khuẩn Helicobacter Pylori
Các nghiên cứu cho thấy rằng, PPI hiệu quả trong việc điều trị tình trạng nhiễm khuẩn HP. Ở những bệnh nhân có vi khuẩn này, quá trình điều trị bằng PPI sẽ làm tăng độ pH trong dạ dày.
Qua đó, tỷ lệ chữa lành viêm thực quản trào ngược cao hơn và cải thiện các triệu chứng của bệnh. Không rõ ràng việc tiêu diệt HP hoàn toàn có khiến các triệu chứng của GERD trở nên tồi tệ hơn hay không vì các nghiên cứu nhỏ cho thấy các kết quả trái ngược nhau.
3.3 Điều trị viêm thực quản trào ngược chậm trễ
Một phân tích tổng hợp về các bệnh nhân bị GERD cho thấy, PPI ảnh hưởng đến khả năng tỷ lệ chữa khỏi bệnh và đáp ứng điều trị cao gấp 2 lần so với việc điều trị bằng thuốc đối kháng thụ thể histamin 2 (H2RA).
Triệu chứng ợ nóng ở người bị GERD sẽ thuyên thảm khoảng 11,5% mỗi tuần khi điều trị bằng PPI. Ở các trường hợp nặng hơn, thời gian chữa khỏi sẽ lâu hơn tuỳ vào mức độ của bệnh.
Tuy nhiên, các nghiên cứu không điều tra rõ ràng mối liên quan giữa các triệu chứng GERD dai dẳng và viêm thực quản không được điều trị dứt điểm. Các dữ liệu bổ sung sẽ là điều cần thiết nhằm xác định xem việc điều trị chậm trễ có tác động đáng kể nào vào tình trạng GERD kháng trị hay không.

3.4 Barrett thực quản (BE)
Barrett thực quản phổ biến hơn ở các bệnh nhân có triệu chứng GERD nhưng dường như không có vai trò đáng kể nào trong tình trạng GERD kháng trị.
Có từ 80 - 85% số bệnh nhân mắc bệnh này đã giải quyết hoàn toàn các triệu chứng của GERD khi điều trị bằng PPI.
3.5 Các nguyên nhân khác
Sau khi đã điều trị mà bệnh nhân không thuyên giảm các triệu chứng của GERD, cần cân nhắc để tiến hành chẩn đoán phân bệnh GERD với các bệnh lý khác. Các bệnh lý này bao gồm:
- Bệnh viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan.
- Co thắt tâm vị.
- Hội chứng Zollinger - Ellison.
- Viêm thực quản do thuốc.
- Các bệnh tự miễn ở da có triệu chứng viêm thực quản.
- Hội chứng Rumination.
- Viêm thực quản nhiễm trùng,
- Nhiễm nấm candida hoặc herpes.
- Ung thư thực quản.
- Người sử dụng NSAID.
- Viêm thực quản do bức xạ.
- Nuốt phải chất ăn mòn.
Các nguyên nhân này có thể khiến người bệnh GERD không đáp ứng điều trị bằng PPI.
Nhìn chung, GERD kháng trị và thuốc PPI là những vấn đề phổ biến, ảnh hưởng đến một tỷ lệ lớn bệnh nhân. GERD kháng trị có thể không có nguyên nhân cơ bản nào hay có thể đại diện cho một vài biểu hiệu của bệnh.
Các nguyên nhân tiềm ẩn của viêm thực quản trào ngược bao gồm:
- Rối loạn chuyển hoá PPI.
- Không tuân thủ phác đồ điều trị.
- Nội tạng quá mẫn.
- Trào ngược không có axit hoặc axit yếu.
- Rối loạn nhu động ruột.
Để chẩn đoán một bệnh nhân có bị GERD kháng trị hay không, cần phải nội soi đường tiêu hoá trên và theo dõi trở kháng để làm rõ bản chất của bất kỳ tình trạng trào ngược nào. Các tình trạng rối loạn khác như co thắt tâm vị hay EoE, ung thư thực quản cũng phải được xem xét.
Hầu hết các liệu pháp liên quan đến việc tối ưu hoá điều trị viêm thực quản trào ngược là nhắm vào cơ chế kháng thuốc khi đã được xác định. Các liệu pháp bổ sung hoặc thay thế cho việc điều trị sẽ bao gồm dược lý hoặc phẫu thuật.
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ uy tín, được rất nhiều bệnh nhân tin cậy trong thực hiện kỹ thuật chẩn đoán và điều trị các bệnh lý viêm thực quản trào ngược, viêm thực quản trào ngược (GERD) kháng trị hay viêm dạ dày...
Cùng với đó, tại Vinmec, quá trình thực hiện chẩn đoán thông qua nội soi đại tràng với máy nội soi Olympus CV 190, với chức năng NBI (Narrow Banding Imaging - nội soi với dải tần ánh sáng hẹp) cho ra kết quả hình ảnh phân tích bệnh lý niêm mạc rõ nét hơn so với nội soi thông thường. Qua đó giúp phát hiện các tổn thương, viêm loét, trào ngược ở thực quản, dạ dày, các tổn thương và biến đổi do Barrett, các tổn thương do ung thư ở giai đoạn bệnh sớm....
Bệnh viện Vinmec với cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại, cùng với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm luôn tận tâm và tận lực trong khám chữa bệnh, do đó khách hàng có thể yên tâm với dịch vụ thăm khám, nội soi đại trực tràng tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Tài liệu tham khảo
- Mermelstein J, Mermelstein AC, Chait MM. Proton pump inhibitors for the treatment of patients with erosive esophagitis and gastroesophageal reflux disease: current evidence and safety of dexlansoprazole. Clin Exp Gastroenterol. 2016;9:163–172. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- Scarpellini E, Ang D, Pauwels A, De Santis A, Vanuytsel T, Tack J. Management of refractory typical GERD symptoms. Nat Rev Gastroenterol Hepatol. 2016;13(5):281–294. [PubMed] [Google Scholar]
- Horn J. The proton-pump inhibitors: similarities and differences. Clin Ther. 2000;22(3):266–280. discussion 265. [PubMed] [Google Scholar]
- Chiba N, De Gara CJ, Wilkinson JM, Hunt RH. Speed of healing and symptom relief in grade II to IV gastroesophageal reflux disease: a meta-analysis. Gastroenterology. 1997;112(6):1798–1810. [PubMed] [Google Scholar]
- Joseph Mermelstein , Alanna Chait Mermelstein , và Maxwell M Chait. Bệnh trào ngược dạ dày-thực quản kháng thuốc ức chế bơm proton: thách thức và giải pháp. Clin Exp Gastroenterol. 2018; 11: 119–134.