Các biến chứng có thể gặp sau đột quỵ

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Bùi Ngọc Phương Hòa - Bác sĩ Nội đa khoa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng.

Đột quỵ tai biến xảy ra khi lượng máu cung cấp cho não đột ngột bị ngưng trệ hay khi có một mạch máu bị vỡ dẫn đến máu tràn vào những khoảng trống xung quanh tế bào não. Đột quỵ là một bệnh rất nguy hiểm và để lại di chứng rất nặng nề cho bản thân người bệnh, gia đình và xã hội.

1. Đột quỵ có chết không?

Cứ 40 giây lại có 1 ca đột quỵ xảy ra và cứ 4 phút có một người chết vì đột quỵ. Đột quỵ thường xảy ra ở người trên 45 tuổi, trong đó có 2⁄3 trường hợp đột quỵ xảy ra ở độ tuổi trên 65 tuổi, nam giới có xu hướng đột quỵ nhiều hơn nữ giới.

Đột quỵ tai biến mạch máu não là bệnh có thể gây tử vong nhanh, có tỷ lệ tử vong cao, đứng hàng đầu trong các bệnh lý ở hệ thần kinh, là nguyên nhân gây tử vong thứ ba chỉ sau bệnh ung thư và các bệnh lý tim mạch.


Đột quỵ tai biến mạch máu não là bệnh có thể gây tử vong nhanh, có tỷ lệ tử vong cao, đứng hàng đầu trong các bệnh lý ở hệ thần kinh
Đột quỵ tai biến mạch máu não là bệnh có thể gây tử vong nhanh, có tỷ lệ tử vong cao, đứng hàng đầu trong các bệnh lý ở hệ thần kinh

2. Nguyên nhân dẫn đến đột quỵ liệt nửa người

Đột quỵ tai biến do chảy máu não: Loại đột quỵ này thường xảy ra ở đối tượng người cao tuổi (có liên quan đến bệnh lý tăng huyết áp) hoặc có thể xảy ra ở người trẻ tuổi (có liên quan đến dị dạng mạch máu ở não ).

Đột quỵ tai biến mạch máu não do tình trạng thiếu máu não:

  • Thuyên tắc mạch máu não do huyết khối, từ đó hình thành các mảng vữa xơ tại những động mạch lớn trong não, dần gây bít tắc lòng mạch và tắc mạch máu não;
  • Thuyên tắc mạch máu não do cục huyết khối di chuyển từ nơi khác đến mạch máu não, thường gặp nhất là huyết khối từ tâm nhĩ ở những bệnh nhân bị rung nhĩ, từ các mảng xơ vữa ở quai động mạch chủ hoặc từ các cục sùi do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn;
  • Thiếu máu não cũng có thể xảy ra khi mạch máu bị xuất hiện mảng xơ vữa gây hẹp nhưng chưa tắc mạch hoàn toàn.

3. Các biến chứng có thể gặp sau đột quỵ

Bệnh nhân đột quỵ thường gặp rất nhiều biến chứng do người bị đột quỵ thường mắc kèm các bệnh nền như bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, tim mạch,... từ đó làm tăng nguy cơ gặp các biến chứng trong quá trình hồi phục sau đột quỵ.

Biến chứng của đột quỵ xảy ra thường do tình trạng tổn thương não, dẫn đến mất khả năng vận động hoặc do các phương pháp hồi phục sau đột quỵ không hiệu quả.

Cả 2 loại đột quỵ do chảy máu não hay đột quỵ do thiếu máu não đều gây hậu quả nặng nề là làm tổn thương một vùng nhu mô não, mức độ tổn thương phụ thuộc vào lưu lượng máu não và thời gian não bị tổn thương.

Nếu ổ tổn thương tại não lớn, khi người bệnh vượt qua được cơn nguy hiểm thường để lại một ổ tế bào bị hoại tử, mất chức năng vĩnh viễn. Tuy nhiên, vùng xung quanh ổ hoại tử là vùng bán ảnh hưởng, nếu được điều trị kịp thời và đúng phương pháp, vùng bán tổn thương này sẽ thu nhỏ phạm vi nhu mô, từ đó làm giảm được các di chứng của đột quỵ.


Biến chứng của đột quỵ xảy ra thường do tình trạng tổn thương não, dẫn đến mất khả năng vận động hoặc do các phương pháp hồi phục sau đột quỵ không hiệu quả
Biến chứng của đột quỵ xảy ra thường do tình trạng tổn thương não, dẫn đến mất khả năng vận động hoặc do các phương pháp hồi phục sau đột quỵ không hiệu quả

Các biến chứng liên quan đến tim, viêm phổi, nghẽn tĩnh mạch, sốt, đau, khó nuốt, co cứng chi, trầm cảm,... đều là những biến chứng phổ biến của bệnh. Các biến chứng của đột quỵ tai biến mạch máu não khiến bệnh nhân bị ảnh hưởng nặng nề về sức khỏe, tâm lý, có thể dẫn đến khuyết tật tạm thời hoặc khuyết tật vĩnh viễn.

Biến chứng ở vị trí nào còn phụ thuộc vào vị trí não bị ảnh hưởng và khoảng thời gian não không được cung cấp oxy bao gồm:

  • Phù nề não sau đột quỵ;
  • Viêm phổi: bệnh nhân đột quỵ tai biến mạch máu não thường gặp khó khăn trong việc nuốt, từ đó dẫn đến hiện tượng thức ăn, đồ uống dễ đi vào phổi gây viêm phổi;
  • Đau tim: 1/2 trường hợp đột quỵ có liên quan đến tình trạng xơ vữa động mạch, gia tăng nguy cơ đau tim sau đột quỵ do sự tồn tại của mảng xơ vữa;
  • Trầm cảm: Bệnh có thể trở nên tồi tệ hơn với những bệnh nhân đã bị trầm cảm trước khi đột quỵ;
  • Loét do tỳ đè (thời gian nằm liệt giường kéo dài): Người bị đột quỵ thường mất khả năng vận động, phải nằm hoặc ngồi yên tại chỗ trong thời gian dài gây viêm loét;
  • Động kinh: Sau đột quỵ, não có thể có những hoạt động bất thường, gây ra co giật;
  • Rối loạn thị giác: Người bị đột quỵ có thể bị giảm hoặc mất thị lực ở 1 hoặc cả hai mắt;
  • Co cứng chi: Mất khả năng vận động, một tay bị yếu hoặc liệt;
  • Nghẽn mạch máu: Mất khả năng vận động hoặc hạn chế vận động khiến cục máu đông hình thành trong tĩnh mạch chân;
  • Nhiễm trùng đường tiết niệu: Xảy ra ở bệnh nhân đột quỵ có đặt ống thông foley;
  • Giảm nhận thức (mất trí nhớ);
  • Mất chức năng nói, khó nói, nói không đầy đủ, nói từ vô nghĩa, không hiểu người khác nói gì...

Đột quỵ có quá trình phục hồi chậm và lâu dài, cần kiên trì, không nóng vội, nghe theo các phương pháp điều trị phản khoa học. Đột quỵ thường phục hồi tốt trong 3 tháng đầu, chậm hơn 3 tháng tiếp theo, đột quỵ đã ngoài 6 tháng thì khả năng phục hồi rất chậm.


Sau đột quỵ, não có thể có những hoạt động bất thường, gây ra co giật
Sau đột quỵ, não có thể có những hoạt động bất thường, gây ra co giật

4. Phòng ngừa đột quỵ

Phòng ngừa đột quỵ theo nguyên nhân gây bệnh và hạn chế các yếu tố nguy cơ:

  • Không hút thuốc, không uống rượu bia;
  • Ăn uống điều độ;
  • Tăng cường vận động thể lực, thể dục thể thao;
  • Tránh căng thẳng;
  • Phát hiện sớm, điều trị kịp thời và kiểm soát ổn định các bệnh lý nền như: Bệnh đái tháo đường, tim mạch, huyết áp,...

Mục tiêu điều trị đột quỵ là tái thông mạch máu càng sớm càng tốt: Bằng liệu pháp tan cục máu đông (rTPA) cho những bệnh nhân đến bệnh viện sớm trong giờ vàng (dưới 4.5 giờ sau khi bị đột quỵ) và lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học (dưới 6 giờ sau khi bị đột quỵ). Năm 2018, Hiệp hội Đột quỵ Mỹ (ASA) khuyến cáo có thể thực hiện phương pháp lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học ở một số bệnh nhân bị tắc mạch máu lớn trong não đến bệnh viện với thời gian muộn hơn, cụ thể là từ 6 - 16h hoặc 16 - 24h với một số tiêu chuẩn riêng, trong đó có tiêu chuẩn bắt buộc là lõi nhồi máu dưới 50-70ml, được đánh giá qua chụp CT SCAN tưới máu não (CTP) mà chỉ có thể thực hiện được ở các thế hệ máy chụp cắt lớp vi tính đa dãy như CT 640 và phần mềm chuyên dụng có tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec. Không chỉ có hệ thống cơ vật chất, trang thiết bị hiện đại: 6 phòng siêu âm, 4 phòng chụp X- quang DR (1 máy chụp toàn trục, 1 máy tăng sáng, 1 máy tổng hợp và 1 máy chụp nhũ ảnh), 2 máy chụp X-quang di động DR, 2 phòng chụp cắt lớp vi tính đa dãy đầu thu (1 máy 128 dãy và 1 máy 16 dãy), 2 phòng chụp Cộng hưởng từ (1 máy 3 Tesla và 1 máy 1.5 Tesla), 1 phòng chụp mạch máu can thiệp 2 bình diện và 1 phòng đo mật độ khoáng xương,....

Ngoài ra, Vinmec còn là nơi quy tụ đội ngũ các y, bác sĩ giàu kinh nghiệm sẽ hỗ trợ phần nhiều trong việc chẩn đoán và phát hiện sớm những dấu hiệu bất thường của cơ thể người bệnh. Đặc biệt, với không gian được thiết kế theo tiêu chuẩn khách sạn 5 sao, Vinmec đảm bảo sẽ mang đến cho người bệnh sự thoải mái, thân thiện, yên tâm nhất.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe