Ý nghĩa xét nghiệm SCC chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào vảy

Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Thạc sĩ, Bác sĩ Đỗ Thị Hoàng Hà - Bác sĩ Xét nghiệm hóa sinh - Khoa Xét nghiệm - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng.

Ung thư là tập hợp các bệnh lý đặc trưng bởi sự phát triển bất thường của các tế bào phân chia không kiểm soát và có khả năng xâm nhập, phá hủy các mô cơ thể bình thường. Với mỗi loại ung thư sẽ có những xét nghiệm chuyên sâu riêng để hỗ trợ phát hiện và chẩn đoán bệnh sớm nhất có thể, từ đó có hướng điều trị kịp thời cho người bệnh. Xét nghiệm SCC được đánh giá là rất hiệu quả trong việc xác định bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy.

1. Ung thư biểu mô tế bào vảy là gì?

Ung thư biểu mô tế bào vảy là tình trạng tăng trưởng mất kiểm soát của các tế bào bất thường, phát sinh trong các tế bào vảy. SCC là một khối u ác tính của biểu mô vảy .

Tế bào biểu mô vảy là thành phần chính của biểu bì nhưng nó cũng hiện diện trong lớp nền của đường tiêu hóa, phổi và các vùng khác của cơ thể như môi, miệng, âm đạo, cổ tử cung, bàng quang ..... Vì vậy rất nhiều cơ quan trong cơ thể có khả năng bị ung thư biểu mô tế bào vảy. Mặc dù có cùng tên ung thư biểu mô tế bào vảy nhưng các SCC ở những vị trí khác nhau có sự khác biệt rất lớn về triệu chứng biểu hiện, tiên lượng và đáp ứng điều trị.

Một số nguyên nhân gây ra bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy có thể kể đến như là:

  • Lỗi ADN.
  • Tiếp xúc quá nhiều với tia cực tím từ ánh nắng mặt trời.
  • Các trị liệu bức xạ như khi điều trị vẩy nến bằng Psoralen cùng với tia cực tím mạnh.
  • Tiếp xúc với các loại độc tố khi sử dụng thực phẩm bẩn.
  • Uống thuốc nhiễm độc, thuốc ức chế miễn dịch.

Ung thư biểu mô tế bào vảy có thể xuất hiện ở nhiều bộ phận khác nhau trên cơ thể. Do đó, nếu thấy cơ thể có những dấu hiệu khác thường sau đây, bạn nên đi khám sớm để được chẩn đoán bệnh kịp thời:

  • Thấy xuất hiện mảng đỏ hay những tổn thương có lớp vỏ có vảy ở trên mặt hoặc dưới môi, tai, cổ, bàn tay, cánh tay.
  • Thấy những vết loét hoặc bản vá phẳng trắng ở trong miệng.
  • Thấy những vết loét gây đau ở hậu môn hoặc ở bộ phận sinh dục.
  • Trên da có một số khác biệt như thay đổi màu sắc, da giảm đáng kể tính đàn hồi, da có nhiều nếp nhăn.
CSS
Ung thư biểu mô tế bào vẩy gây ra nhiều thay đổi trên da

Song loại ung thư này thường không có biểu hiện rõ ràng và phát triển chậm nên bệnh nhân rất khó phát hiện. Theo thống kê cho thấy loại ung thư biểu mô tế bào vảy chiếm khoảng 20% tổng số các trường hợp ung thư da và nó có thể xâm lấn, di căn đến nhiều bộ phận khác trong cơ thể. Chính vì vậy, ung thư biểu mô được đánh giá là một loại bệnh nguy hiểm. Nếu bệnh không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh nhân có thể sẽ bị nhiều biến chứng hoặc tử vong. Ngày nay, với sự phát triển của y học hiện đại cùng với khoa học kỹ thuật đã giúp phát hiện sớm rất nhiều trường hợp, từ đó giúp việc điều trị hiệu quả hơn.

2. Ý nghĩa xét nghiệm SCC chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào vảy

Squamous Cell Carcinoma Antigen được viết tắt là SCCA hoặc SCC, đây là kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy.. Kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy là một tiểu phần của kháng nguyên khối u TA‐4 được mô tả lần đầu tiên bởi Kato và Torigoe vào năm 1977, lấy từ mô ung thư biểu mô tế bào vảy cổ tử cung, là một glycoprotein có trọng lượng phân tử 48 kDa và bao gồm ít nhất 14 tiểu phần, có thời gian bán hủy trong máu là khoảng 2,2 giờ. SCCA là một trong những tiểu phần này, có thể được phát hiện bằng hóa mô miễn dịch trong mô tế bào vảy của phổi, âm hộ, phần ngoài của cổ tử cung, thực quản và da.

Các giai đoạn ung thư tiến triển liên quan đến nồng độ SCCA cao đặc biệt là trong ung thư phổi và ung thư cổ tử cung. Việc xác định nồng độ kháng nguyên, trong các lần thực hiện liên tiếp hỗ trợ đánh giá bệnh tái phát, tồn lưu bệnh sau điều trị và đáp ứng điều trị. Các yếu tố nguy cơ như uống rượu, hút thuốc, tuổi tác và nhiễm virus paliloma người (HPV), đặc biệt là HPV‐16 được chứng minh có liên quan đến SCC đầu cổ, phổi và vùng hậu môn sinh dục.

SCCA có thể được tìm thấy trong biểu mô tế bào vảy bình thường cũng như ở nồng độ thấp trong máu người. Nó không phải là một protein đặc hiệu cho khối u. Do đó, nồng độ SCCA cao có thể liên quan đến ung thư tế bào vảy cũng như những rối loạn lành tính.

Một người khỏe mạnh tham chiếu đối với xét nghiệm SCC là <3.0 ng/ml. Với những bệnh nhân có ung thư biểu mô tế bào vảy chỉ số này sẽ tăng lên rất nhiều. Với các trường hợp sau, chỉ số SCC sẽ tăng lên đáng kể:

  • Ung thư cổ tử cung: Mô học thông dụng nhất trong ung thư cổ tử cung là SCC với SCCA là dấu ấn sinh học được lựa chọn cho mô học này. SCCA được ghi nhận là dấu ấn được lựa chọn để theo dõi ung thư cổ tử cung theo Hướng dẫn Nhóm các dấu ấn khối u của Châu Âu, đặc biệt có giá trị trong dự đoán tiên lượng, theo dõi và xác định trước khi điều trị ở bệnh nhân có nguy cơ cao với di căn hạch bạch huyết trong ung thư tế bào vảy cổ tử cung. Nồng độ huyết thanh của SCCA được tìm thấy liên quan đến giai đoạn của khối u, kích thước khối u, tồn lưu khối u sau khi điều trị, bệnh tái phát hoặc tiến triển, và sự sống của bệnh nhân với ung thư tế bào vảy cổ tử cung . Theo thống kê cho thấy khoảng 45 - 83% bệnh nhân ung thư cổ tử cung dạng tế bào vảy có hiện tượng tăng nồng độ SCC, khoảng 66 - 84% bệnh nhân tái phát cũng có dấu hiệu tăng SCC. Việc đo SCCA kết hợp với hsCRP cho kết quả tỷ lệ phát hiện cao nhất sự tái phát bệnh trong quá trình theo dõi ung thư cổ tử cung.
  • Ung thư da tế bào vảy: là một u ác tính của tế bào gai thượng bì xâm nhập lớp hạ bì; nguyên nhân là để da tiếp xúc quá lâu với ánh nắng mặt trời, da sẽ có những vết sần màu đỏ, có khi thường xuyên ngứa và có hiện tượng bong da hoặc nổi vết loét mà không rõ nguyên nhân. Đây là loại ung thư da phổ biến thứ 2 sau ung thư biểu mô tế bào đáy.
  • Ung thư phổi: SCCA được báo cáo là một dấu ấn sinh học cho ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC), chủ yếu là dạng ung thư biểu mô tế bào vảy, với điều kiện loại trừ những bệnh nhân bị suy thận. SCC ở phổi có liên quan chặt chẽ với tiền sử hút thuốc lá hơn những loại ung thư phổi khác. Có khoảng 39 - 78% bệnh nhân ung thư phổi dạng tế bào vảy có hiện tượng tăng nồng độ SCC trong máu.
  • Ung thư vòm họngung thư thực quản (nói chung là nhóm ung thư đầu cổ): 90% ung thư đầu và cổ là SCC, có nguồn gốc từ màng niêm mạc (biểu mô) của những khu vực này. Ở bệnh nhân có các khối u nhỏ, nồng độ SCCA trong huyết thanh liên quan đến di căn hạch với nồng độ cao hơn đáng kể ở bệnh nhân hạch dương tính. Một số nghiên cứu cho thấy SCC là một yếu tố dự đoán độc lập sự khỏi bệnh và nồng độ trước điều trị là một chỉ số tiên lượng độc lập ở bệnh nhân có khối u ác tính ở đầu và cổ. Có khoảng 30 - 39 % bệnh nhân tăng nồng độ SCC. Tuy nhiên mức độ tăng là khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn của bệnh.
  • Giai đoạn I chỉ có 0 - 27% bệnh nhân tăng SCC.
  • Giai đoạn II có khoảng 20 -40% bệnh nhân tăng SCC.
  • Giai đoạn III có khoảng 39 - 61% bệnh nhân tăng SCC.
  • Giai đoạn IV có khoảng 45 - 50% bệnh nhân tăng SCC.
  • Ung thư bàng quang, ung thư dương vật: có khoảng 45% bệnh nhân sẽ tăng SCC huyết tương, chỉ số này cũng có thể tăng với các bệnh nhân mắc ung thư niệu đạo.
  • Ung thư dạ dày, ung thư đại trực tràng: theo các chuyên gia, chỉ số SCC có thể tăng trong khoảng 20% các trường hợp mắc ung thư đại tràng hay ung thư tụy.

Ngoài ra, chỉ số xét nghiệm SCC tăng nhẹ cũng có thể là do một số bệnh lành tính như là:

ung thư
Bệnh nhân mắc ung thư sẽ làm chỉ số CSS tăng lên đáng kể

Trong đó suy thận và các rối loạn về da là những nguyên nhân quan trọng nhất gây kết quả dương tính giả với dấu ấn sinh học này

Xét nghiệm SCC không chỉ được sử dụng để phát hiện sớm bệnh ung thư tế bào vảy mà nó còn thường được sử dụng để kiểm tra hiệu quả điều trị cho bệnh nhân cũng như phát hiện sớm nếu bệnh có dấu hiệu tái phát.

3. Ai cần làm xét nghiệm SCC?

Xét nghiệm SCC được chỉ định cho những người có nguy cơ cao bị ung thư tế bào vảy, gồm các trường hợp sau đây:

  • Những người thường xuyên phải làm việc ở môi trường tiếp xúc với bức xạ mặt trời.
  • Trong gia đình từng có người bị ung thư da.
  • Người hút thuốc lá, thuốc lào và các chế phẩm tương tự.
  • Những người làm việc trong môi trường hóa chất độc hại, môi trường bức xạ.
  • Những người bị nhiễm HPV, Epsteins Bar virus.

Nếu kết quả xét nghiệm chỉ số SCC trong huyết tương tăng, bạn cần trao đổi với bác sĩ để tìm hiểu nguyên nhân nào khiến chỉ số này tăng, kết hợp với thăm khám lâm sàng và chỉ định các xét nghiệm chuyên sâu khác: bởi có thể đó chỉ là một bệnh lành tính, nhưng cũng có khi là một bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy cần được chẩn đoán để điều trị sớm.

Như vậy xét nghiệm SCC được sử dụng để chẩn đoán bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy, theo dõi hiệu quả điều trị cũng như phát hiện sớm nếu bệnh tái phát trở lại. Để biết mình có cần làm xét nghiệm này hay không, bạn nên đi khám để nhận sự tư vấn của các bác sĩ chuyên khoa Nội bạn nhé.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

41K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan

Xin mời bạn chọn tỉnh thành: