Cảnh giác các loại mụn ở trẻ sơ sinh

Các loại mụn ở trẻ sơ sinh như bệnh da mụn nước, bọng nước, mụn mủ,... do nhiều nguyên nhân gây ra như bệnh bẩm sinh, bệnh nhiễm khuẩn,... Cần chẩn đoán và điều trị kịp thời cho các tình trạng trên để tránh những di chứng không mong muốn.

1. Tìm hiểu về các loại mụn thường gặp ở trẻ sơ sinh

Các loại mụn ở trẻ sơ sinh thường gặp, thoáng qua là:

1.1 Ban đỏ nhiễm độc ở trẻ sơ sinh

Ban đỏ nhiễm độc ở trẻ sơ sinh (tiếng Anh: Erythema toxicum neonatorum – ETN) là 1 bệnh mụn mủ thường gặp ở khoảng 20% trẻ sơ sinh trong vòng 72 giờ đầu sau khi chào đời. Tình trạng này hay gặp ở trẻ sơ sinh nặng cân, thai đủ tháng hoặc già tháng. Cơ chế bệnh sinh chưa rõ nhưng theo 1 giả thuyết đặt ra thì bệnh ban đỏ nhiễm độc ở trẻ sơ sinh là một đáp ứng miễn dịch ban đầu trước sự xâm nhập các vi sinh vật kí sinh trên da vào nang lông.

Biểu hiện của ban đỏ nhiễm độc ở trẻ sơ sinh là những mảng, sẩn đỏ có kích thước 1 - 3mm, nhanh chóng tiến triển thành mụn mủ trên nền da đỏ. Tổn thương này thường xuất hiện ở thân mình - gần các chi, không có tổn thương ở lòng bàn tay và bàn chân. Bệnh có thể biểu hiện ngay từ khi trẻ sinh ra nhưng thường xuất hiện sau khoảng 24 - 48 giờ, thoái triển sau khoảng 5 - 7 ngày.

Việc chẩn đoán cho tình trạng này chủ yếu dựa vào lâm sàng. Xét nghiệm thường không cần thiết, nhưng nếu xét nghiệm thì sẽ bao gồm các phương pháp: Nhuộm Wright mụn mủ, soi dưới kính hiển vi; xét nghiệm máu hoặc nuôi cấy mủ tìm vi khuẩn, nấm. Bệnh thoái triển tự nhiên nên không cần điều trị.

1.2 Bệnh sắc tố mụn mủ thoáng qua ở trẻ sơ sinh

Đây là một trong các loại mụn ở trẻ sơ sinh thường gặp. Bệnh sắc tố mụn mủ thoáng qua ở trẻ sơ sinh (tiếng Anh: Transient neonatal pustular melanosis – TNPM) có tỷ lệ mắc thấp hơn so với bệnh ban đỏ nhiễm độc ở trẻ sơ sinh. Bệnh thường gặp ở trẻ da đen đủ tháng (4 - 5%), ở 0.5% trẻ châu Á đủ tháng. Tổn thương sẽ xuất hiện ngay tại lúc sinh nhưng cơ chế bệnh sinh chưa rõ.

Triệu chứng lâm sàng của bệnh có 3 giai đoạn:

  • Giai đoạn 1 (ngay lúc sinh): Trẻ mọc mụn nước, mụn mủ nhỏ có kích thước 2 - 10mm trên nền da không đỏ. Mụn nước và mụn mủ thường mọc ở cằm trán, cổ, lưng và mông; ít gặp ở mặt, ngực hay lòng bàn tay, lòng bàn chân;
  • Giai đoạn 2: Trẻ nổi ban đỏ trên da, có mảng tăng sắc tố nhẹ, xung quanh có viền vảy do vỡ mụn mủ. Biểu hiện này tồn tại khoảng vài tuần tới vài tháng;
  • Giai đoạn 3: Mảng tăng sắc tố mờ dần sau khoảng vài tuần tới vài tháng.

Một số trường hợp trẻ chỉ có biểu hiện mảng tăng sắc tố, không thấy xuất hiện mụn mủ.

Việc chẩn đoán bệnh sắc tố mụn mủ thoáng qua ở trẻ sơ sinh chủ yếu dựa trên lâm sàng. Nếu xét nghiệm thì có thể thực hiện nhuộm Wright mụn mủ hoặc sinh thiết mô bệnh học. Bệnh thoái triển tự nhiên nên không cần điều trị.

các loại mụn ở trẻ sơ sinh
Ban đỏ nhiễm độc ở trẻ sơ sinh là một trong các loại mụn ở trẻ sơ sinh

1.3 Mụn mủ vùng đầu ở trẻ sơ sinh

Mụn mủ vùng đầu ở trẻ sơ sinh (tiếng Anh: Neonatal cephalic pustulosis) gặp ở khoảng 20% trẻ nhỏ và không có tính chất gia đình. Nguyên nhân gây bệnh chưa rõ ràng, có thể là do phản ứng viêm của da với nấm Malassezia.

Mụn mủ vùng đầu ở trẻ sơ sinh thường gặp ở trẻ 3 tuần tuổi, tổn thương là các mụn mủ, sẩn viêm, không có nhân mụn, chủ yếu xuất hiện ở mặt, đặc biệt là má và có thể mọc ở đầu. Bệnh thường nhẹ, tự thoái triển trong vòng 4 tháng, không để lại sẹo. Bệnh cũng không làm tăng nguy cơ xuất hiện mụn trứng cá khi trẻ bước sang tuổi vị thành niên.

Để điều trị mụn mủ vùng đầu ở trẻ sơ sinh, các bậc phụ huynh nên chú ý: Rửa mặt cho trẻ hằng ngày, tránh sử dụng các sản phẩm chứa dầu. Sử dụng kem ketoconazole 2% bôi 2 lần/ngày hoặc dùng hydrocortisone 1% bôi 1 lần/ngày có hiệu quả trong một số trường hợp.

1.4 Miliaria

Bệnh Miliaria là một trong các loại mụn ở trẻ sơ sinh và trẻ em thường gặp. Bệnh hay gặp ở vùng có khí hậu nóng ẩm với tỷ lệ mắc bệnh có thể lên tới 15%. Bệnh hình thành do tình trạng tắc nghẽn ống tuyến mồ hôi.

Trẻ bị Miliaria có tổn thương ở mặt, da đầu và nếp kẽ. Bệnh có 4 thể chính:

  • Miliaria tinh thể: Biểu hiện ở dạng mụn nước nhỏ, thành mỏng và không viêm, giống giọt sương. Bệnh có thể biểu hiện ngay từ khi sinh ra do tình trạng tắc ống tuyến eccrine phần nông thượng bì;
  • Miliaria rubra (rôm đỏ): Xuất hiện do tắc nghẽn ống tuyến mồ hôi thượng bì, dẫn tới phản ứng viêm tại chỗ ở thượng bì và trung bì, gây hình thành các đám mụn mủ và sẩn đỏ;
  • Miliaria pustulosa: Hình thành do viêm tại chỗ, biểu hiện mụn mủ trên nền dát đỏ tương tự như Miliaria rubra;
  • Miliaria profunda: Biểu hiện dạng sẩn, sẩn mụn mủ và da đổi màu, khá hiếm gặp ở trẻ em.

Bệnh Miliaria hiếm gặp ngay sau khi sinh mà thường phát triển trong tuần đầu tiên sau khi trẻ sinh ra. Bệnh đặc biệt liên quan tới nhiệt độ nóng: Dùng lò sưởi, mặc nhiều lớp quần áo,...

Việc chẩn đoán bệnh Miliaria chủ yếu dựa trên các triệu chứng lâm sàng. Bệnh không cần điều trị đặc hiệu. Các tổn thương thường thoái triển nhanh nếu trẻ giảm tiết mồ hôi bằng cách cha mẹ thay đổi môi trường mát mẻ hơn, cho trẻ mặc ít quần áo hơn.

các loại mụn ở trẻ sơ sinh
Bệnh Miliaria là một trong các loại mụn ở trẻ sơ sinh và trẻ em thường gặp

1.5 Trứng cá trẻ em

Trong số các loại mụn ở trẻ em thì trứng cá trẻ em là bệnh không thường gặp. Bệnh có thể gặp ở trẻ từ vài tuần tuổi tới 3 - 4 tháng tuổi. Nguyên nhân gây trứng cá trẻ em là do tăng sản tuyến bã thứ phát do androgen - thường gặp ở trẻ nam. Các trường hợp nặng, kháng trị cần loại trừ bệnh u tuyến thượng thận, u sinh dục, tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh, dậy thì sớm,...

Biểu hiện trứng cá trẻ em là: Tổn thương dạng trứng cá điển hình với mụn nhân, mụn mủ, sẩn viêm ở mặt. Bệnh thường thoái triển tự nhiên trong năm đầu đời nhưng cũng có thể tồn tại tới khi trẻ được 3 tuổi. Bệnh có thể tái phát thành tình trạng trứng cá nặng khi trẻ bước sang tuổi dậy thì.

Việc điều trị trứng cá trẻ em là cần thiết vì bệnh có thể để lại sẹo. Nếu tổn thương viêm nhẹ hoặc trung bình, bác sĩ có thể chỉ định cho trẻ sử dụng các chất bong sừng nhẹ như benzoyl peroxide 2.5% hoặc kháng sinh (clindamycin, erythromycin) bôi tại chỗ hay retinoid bôi tại chỗ. Với tổn thương viêm nặng, bác sĩ có thể chỉ định cho trẻ sử dụng isotretinoin, erythromycin uống (không dùng tetracyclin cho những trẻ dưới 8 tuổi).

2. Các loại mụn ở trẻ sơ sinh và trẻ em hiếm gặp

Có một số loại mụn ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ khá hiếm gặp như:

2.1. Viêm nang lông mụn mủ tăng bạch cầu ưa axit ở trẻ

Tên tiếng Anh của bệnh lý này là Eosinophilic pustular folliculitis of infancy – EPFI. Đây là bệnh da hiếm gặp, cơ chế bệnh sinh chưa rõ ràng. Hiện chưa rõ mối liên quan giữa bệnh này với bệnh viêm nang lông mụn mủ tăng bạch cầu ưa axit ở người lớn.

Biểu hiện của bệnh là xuất hiện mụn mủ nang lông ngứa, tái phát, hay gặp ở da đầu hoặc các chi. Tuổi khởi phát trung bình là 5 tháng tuổi, tỷ lệ nam/nữ là 4/1. Các đợt tái phát thường cách nhau khoảng 1 - 12 tuần và tự thoái triển trong vòng 1 - 4 tuần. Bệnh thường thoái triển hoàn toàn trước khi trẻ được 3 tuổi.

Việc chẩn đoán gồm: Dựa trên triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm. Các phương pháp xét nghiệm được thực hiện gồm: Soi tươi mụn mủ, sinh thiết mô bệnh học và xét nghiệm máu. Bệnh được điều trị giảm nhẹ triệu chứng: Sử dụng corticoid bôi tại chỗ để giúp tổn thương thoái triển nhanh hơn và giảm ngứa.

2.2. Mụn mủ đầu chi ở trẻ em

Bệnh này có tên tiếng Anh là Infantile acropustulosis – IA. Đây là một bệnh mụn mủ, mụn nước lành tính nhưng có thể tiến triển mạn tính. Hiện chưa rõ cơ chế bệnh sinh, có thể liên quan tới phản ứng quá mẫn không đặc hiệu với nhiễm ký sinh trùng ghẻ. Bệnh đồng mắc với viêm da cơ địa gặp ở 50% trường hợp. Mụn mủ đầu chi ở trẻ em hay gặp ở trẻ nam da màu, khởi phát khi trẻ chưa được 1 tuổi.

Biểu hiện lâm sàng của tình trạng mụn mủ đầu chi ở trẻ em là xuất hiện mụn nước, mụn mủ ngứa nhiều, hay tái phát. Các nốt mụn chủ yếu ở lòng bàn tay và chân, có thể xuất hiện ở mặt mu bàn tay, chân, các chi. Các đợt tái phát mụn thường cách nhau khoảng 2 - 4 tuần, có thể kéo dài 5 - 10 ngày/đợt. Bệnh thường thoái triển trong vòng 2 năm.

Mụn mủ đầu chi ở trẻ em được chẩn đoán dựa trên các triệu chứng lâm sàng. Bác sĩ sẽ tìm các biểu hiện của ghẻ trước đó, kết hợp với khai thác tiền sử gia đình của bệnh nhi. Phương pháp xét nghiệm khẳng định là sinh thiết mô bệnh học (thường không cần thiết). Các lựa chọn điều trị gồm: Sử dụng corticoid bôi tại chỗ hoặc kháng histamin đường uống, dapsone, erythromycin,...

các loại mụn ở trẻ sơ sinh
Mụn mủ vùng đầu ở trẻ sơ sinh

2.3. Phát ban mụn nước, mụn mủ và rối loạn sinh tủy thoáng qua ở trẻ mắc hội chứng Down

Khoảng 20% trẻ em mắc hội chứng Down có rối loạn sinh tủy thoáng qua. Trong một số trường hợp, tình trạng rối loạn sinh tủy thoáng qua có thể đi kèm phát ban mụn nước, mụn mủ ở mặt (xuất hiện ở những ngày đầu sau sinh). Tổn thương da thường sẽ thoái triển tự nhiên sau 1 - 3 tháng.

2.4. Nhiễm sắc tố dầm dề

Bệnh lý này có tên tiếng Anh là Incontinentia pigmenti. Đây là một trong các loại mụn ở trẻ sơ sinh hiếm gặp. Bệnh thường xuất hiện khi trẻ vừa sinh ra tới khi được vài tuần tuổi. Tổn thương thường gặp là các sẩn dày sừng, mụn nước, mọc ở các chi.

2.5. Vảy nến thể mủ

Tình trạng này có tên tiếng Anh là Pustular psoriasis. Bệnh vảy nến thể mủ thường xuất hiện ở những trẻ sinh ra từ 1 - 7 ngày. Các tổn thương cơ bản là xuất hiện mụn mủ, hồ mủ trên nền da đỏ. Mụn có thể lan tỏa ở bất kỳ vị trí nào hoặc gặp ở lòng bàn tay, lòng bàn chân,... Đây là bệnh tương đối khó điều trị.

2.6. Bệnh mô bào Langerhan bẩm sinh.

Bệnh có tên tiếng Anh là Congenital Langerhans cell histiocytosis. Bệnh thường gặp ở trẻ mới sinh hoặc trong vài ngày sau sinh, có các tổn thương là sẩn, mụn nước, nang, chấm xuất huyết,... Các nốt mụn phân bố ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, hay gặp ở các nếp gấp, da đầu, lòng bàn tay, lòng bàn chân, niêm mạc,...

Cần khám các cơ quan như gan, thận, cơ - xương - khớp. Nếu chỉ có tổn thương da đơn độc thì bệnh thường thoái triển tự nhiên sau vài tuần hoặc vài tháng, tiên lượng bệnh tốt. Trong trường hợp tổn thương đa cơ quan thì tiên lượng xấu hơn, cần dùng thuốc điều trị toàn thân.

2.7. Bệnh Behcet ở trẻ sơ sinh

Tên tiếng Anh của bệnh là Neonatal Behcet’s disease. Bệnh Behcet thường xuất hiện ở trẻ 1 - 7 ngày tuổi, biểu hiện là các mụn nước, mụn mủ, gây ngứa hoặc thoại tử ở da bàn tay, bàn chân, đi kèm loét vùng miệng và cơ quan sinh dục. Bện có thể kèm theo các triệu chứng như tiêu chảy, viêm mạch.

2.8. Hội chứng tăng IgE

Tên tiếng Anh của tình trạng này là Hyper-IgE syndrome. Đây là bệnh do đáp ứng viêm bất thường, xuất hiện từ khi trẻ vừa sinh ra tới khi được vài tuần tuổi. Biểu hiện của bệnh là xuất hiện các mụn nước hoặc sẩn mủ đơn độc hoặc mọc theo từng nhóm. Vị trí hay xuất hiện mụn nước và sẩn mủ là mặt, da đầu, nách, thân, bẹn,... Trẻ có IgE máu tăng (trên 2000 IU/ml), tăng bạch cầu ưa acid.

Có nhiều bệnh gây ra các loại mụn ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Một số bệnh tự khỏi nhưng một số bệnh có thể đi kèm tổn thương đa cơ quan, điều trị phức tạp. Vì vậy, khi trẻ có những biểu hiện bất thường trên da, cha mẹ nên đưa bé đi khám sớm để được chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

59.4K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan