Cách nào hạn chế nhiễm vi khuẩn kháng thuốc?

Vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh làm cho thuốc không còn tác dụng trên lâm sàng, không tiêu diệt được vi khuẩn ngay cả khi sử dụng với nồng độ cao và trong thời gian dài. Vì thế, có thể coi kháng kháng sinh là một mối hiểm họa to lớn do vi khuẩn sẽ “thoải mái” lộng hành, phát triển mà không có bất kỳ vũ khí nào ngăn lại. Vậy làm cách nào để hạn chế nhiễm vi khuẩn kháng thuốc?

1. Đề kháng kháng sinh ở Việt Nam

Kháng kháng sinh là khả năng các vi sinh vật có thể sinh trưởng và phát triển với sự hiện diện của một loại thuốc mà thông thường có thể giết chết hoặc ức chế được sự phát triển của chúng. Từ đó dẫn đến các liệu pháp điều trị thông thường không còn hiệu quả, nhiễm trùng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn, thời gian bị bệnh lâu hơn, chi phí điều trị tăng lên, nguy cơ tử vong cao hơn.

Tình trạng kháng kháng sinh hiện nay dẫn đến ngày càng có nhiều bệnh lý nhiễm trùng (viêm phổi, nhiễm trùng tiết niệu, bệnh lao,...) trở nên khó điều trị hơn hoặc thậm chí không thể điều trị được nữa.

Có thể thấy kháng kháng sinh đang là mối đe dọa rất lớn đến sức khỏe cộng đồng. Việt Nam là một trong những quốc gia đang bị đe dọa ngày càng tăng của tình trạng kháng kháng sinh, do hiện tượng sử dụng kháng sinh không hợp lý từ hệ thống chăm sóc sức khỏe, trong việc nuôi trồng thủy sản, trong chăn nuôi và trong thói quen sử dụng thuốc ngoài cộng đồng.

Thực tế cho thấy có đến 88 - 97% các hiệu thuốc có bán lẻ thuốc kháng sinh mà không cần đơn thuốc của bác sĩ (dù việc làm này bị cấm theo luật pháp Việt Nam) và kháng sinh chiếm hơn 50% trên tổng số các thuốc dùng cho người tại Việt Nam. Một nghiên cứu tiến hành tại các bệnh viện ở nước ta còn cho thấy 1/3 số bệnh nhân nội trú sử dụng thuốc kháng sinh không hợp lý trong quá trình điều trị tại viện.

2. Vi khuẩn kháng thuốc mối hiểm họa to lớn

Theo báo cáo của CDC Châu Âu, hằng năm có hơn 25.000 bệnh nhân tử vong do nhiễm vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh mạnh. Các vi khuẩn kháng thuốc được biết đến như MRSA, vi khuẩn tiết ESBL,... với số lượng tăng lên rõ rệt hằng năm, trong đó vi khuẩn tiết ESBL đã tăng 6 lần trong 4 năm.

Gần đây có sự lây lan một cách nhanh chóng của các vi khuẩn kháng thuốc gram âm mang gen kháng kháng sinh mới: Gen NDM-1 - New Delhi Metallo Beta lactamase 1 được nhận xét rằng có khả năng kháng được nhóm kháng sinh mạnh nhất hiện nay và là lựa chọn cuối cùng mà chúng ta đang có nhóm Carbapenem.

Các vi khuẩn thường gặp trong bệnh viện ở nước ta bao gồm: E.coli, trực khuẩn mủ xanh Pseudomonas aeruginosa, Klebsiella, Acinetobacter baumannii, tụ cầu vàng,... có tỷ lệ kháng rất cao với các kháng sinh thường dùng. Đặc biệt với chủng vi khuẩn Acinetobacter baumannii được xem là một nguyên nhân gây nhiễm trùng bệnh viện hàng đầu với tỷ lệ kháng kháng sinh báo động đỏ, vi khuẩn này đã kháng với hầu hết các kháng sinh thông thường được dùng trong bệnh viện.

Thuốc kháng sinh được xem là một giải pháp cho loài người trong các bệnh nhiễm khuẩn, nó giúp chúng ta kiểm soát được nhiều dịch bệnh. Tuy nhiên, hiện nay việc sử dụng kháng sinh chưa thật sự hợp lý đang dẫn nhanh đến tình trạng vi khuẩn kháng thuốc.

nhiễm vi khuẩn kháng thuốc
Nhiễm vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh làm cho thuốc không còn tác dụng trên lâm sàng

3. Tại sao vi khuẩn kháng thuốc?

Từ lâu các nhà khoa học đã bắt tay vào nghiên cứu cơ chế kháng kháng sinh của các vi khuẩn kháng thuốc. Vi khuẩn dù rất nhỏ bé nhưng lại có muôn vàn cách thức để đối phó với các loại kháng sinh do con người sản xuất ra, vì vậy hầu như chúng ta luôn phải chạy theo sau sự tiến hóa của vi khuẩn. Trên thực tế lâm sàng, các kháng sinh mới được nghiên cứu, rất đắt tiền và chỉ vừa được đưa vào sử dụng rộng rãi chưa lâu thì ngay sau đó đã xuất hiện các chủng vi khuẩn kháng kháng sinh đó.

Có rất nhiều cách để vi khuẩn kháng thuốc làm mất hoạt tính của kháng sinh, tuy nhiên có thể phân loại thành 3 nhóm nguyên nhân chính:

3.1. Vi khuẩn làm hạn chế sự xâm nhập của kháng sinh

Vi khuẩn làm hạn chế sự xâm nhập của kháng sinh vào bên trong tế bào của chúng, khiến thuốc ít có cơ hội phát huy tác dụng và tiêu diệt vi khuẩn. Cụ thể hơn, vi khuẩn sẽ củng cố các màng bảo vệ bên ngoài của chúng (màng ngoài ở vi khuẩn gram âm) hoặc hình thành các bơm có tác dụng đẩy từ bên trong để bơm kháng sinh ngược ra ngoài nếu kháng sinh đã xâm nhập được vào tế bào vi khuẩn (có chế kháng thuốc của trực khuẩn mủ xanh, Acinetobacter sp...). Hiện nay phần lớn các vi khuẩn gram âm sống tại đại tràng đều có chế này để kháng kháng sinh nhóm beta - lactam.

3.2. Vi khuẩn sản xuất ra các men để phá hủy các kháng sinh

Thường gặp ở tụ cầu vàng và các vi khuẩn đường ruột. Tụ cầu vàng tổng hợp được các men ß-lactamase phá hủy vòng lactam của kháng sinh ß-lactam, trong khi đó các vi khuẩn đường ruột (E.coli, Klebsiella sp...) có thể sản xuất ra men ß-lactamase phổ rộng (ESBL), có thể kháng lại được hầu hết các kháng sinh ß-lactam ngoại trừ một số kháng sinh mới như imipenem, meronem,...

Đặc biệt gần đây nhóm vi khuẩn có NDM- siêu kháng thuốc có thể kháng được tất cả kháng sinh thông thường kể cả 2 loại kháng sinh mới nêu trên. Ở nhóm vi khuẩn sản xuất ra các men kháng thuốc này, khi các kháng sinh đủ mạnh, vượt qua được lớp màng ngoài của vi khuẩn, xâm nhập vào bên trong thì lại bị các hóa chất (enzyme) do vi khuẩn sản sinh để phá hủy tác dụng của kháng sinh.

3.3. Vi khuẩn che lại hoặc làm biến đổi các vị trí tác động của kháng sinh

Do các đột biến gen trên nhiễm sắc thể hoặc plasmid trong tế bào vi khuẩn, vi khuẩn sẽ làm biến đổi các vị trí tác động của kháng sinh. Đối với kháng sinh nhóm beta-lactam, để tiêu diệt vi khuẩn, kháng sinh phải gắn được vào các đích tác động là các PBP (protein gắn với penicillin), việc giảm ái lực của thuốc với các vị trí gắn PBP sẽ làm mất tác dụng của thuốc, cơ chế này thường gặp với cầu khuẩn gram dương (Staphylococcus aureus, Streptococcus pneumoniae) nhưng hiếm gặp ở vi khuẩn gram âm.

Tương tự, sự đột biến gen biến đổi vị trí gắn của kháng sinh ở tiểu đơn vị ribosom bên trong tế bào vi khuẩn có thể làm giảm hoạt tính của kháng sinh nhóm macrolides, clindamycin, aminoglycosides,... làm kháng sinh không đủ khả năng ức chế tổng hợp protein và sự tăng trưởng của vi khuẩn. Trong khi đó sự đột biến gen mã hóa men DNA-gyrase sẽ gây ra hiện tượng đề kháng kháng sinh nhóm quinolon do DNA-gyrase là men cần thiết cho việc phát huy hoạt tính của các quinolon.

Có thể thấy, vi khuẩn sử dụng mọi loại vũ khí như vũ khí hóa học, vũ khí sinh học và cả vật lý để chống lại tác dụng của kháng sinh mà con người tạo ra.

nhiễm vi khuẩn kháng thuốc
Vi khuẩn kháng thuốc ngày càng gia tăng do việc sử dụng kháng sinh bừa bãi

4. Cách nào hạn chế nhiễm vi khuẩn kháng thuốc?

Nhiễm vi khuẩn kháng thuốc ngày càng gia tăng do việc sử dụng kháng sinh bừa bãi, bất cứ bệnh (sốt, đau đầu, ho, chảy mũi...) người bệnh đều tự ý sử dụng kháng sinh dù chưa xác định được nguyên nhân gây bệnh có phải là do vi khuẩn hay không. Lâu dần sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn quen dần với kháng sinh và hình thành sức đề kháng với kháng sinh. Ngoài ra, sự tiếp xúc giữa những người bị nhiễm trùng có thể dẫn đến tình trạng bị đề kháng với những kháng sinh mà bản thân chưa dùng bao giờ, hiện tượng này được gọi là đề kháng chéo.

Chỉ sử dụng kháng sinh khi chắc chắn có nhiễm trùng hoặc sử dụng kháng sinh với mục đích dự phòng (trong một số trường hợp dự đoán chắc chắn) tuy nhiên lúc này chỉ sử dụng dự phòng ở một liều tối thiểu.

Để hạn chế nhiễm vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh ngày một gia tăng như hiện nay, mọi người cần hình thành ý thức sử dụng thuốc theo sự chỉ dẫn của bác sĩ, không tự ý dùng thuốc hoặc mua thuốc về dùng theo mách bảo của người khác. Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh khi xác định được đó là bệnh nhiễm khuẩn dựa vào kinh nghiệm chữa bệnh của bác sĩ, các xét nghiệm, kháng sinh đồ,...

Lựa chọn đúng loại kháng sinh cũng là một vấn đề cần hết sức lưu ý, nếu chọn không đúng, thuốc sẽ không cho hiệu quả.

Người nhiễm vi khuẩn kháng thuốc kháng sinhthì việc sử dụng thuốc cần lưu ý đến những đối tượng đặc biệt như người già, bệnh nhân suy gan, suy thận,... để tính toán liều lượng một cách thận trọng.

Dùng kháng sinh đúng liều, đúng - đủ thời gian, tùy theo loại bệnh thời gian dùng kháng sinh sẽ khác nhau nhưng thông thường là không dùng khánh sinh dưới 5 ngày cho dù các triệu chứng bệnh đã có dấu hiệu thuyên giảm hoặc khỏi hẳn.

Không kéo dài thời gian sử dụng quá lâu sẽ làm cho vi khuẩn có cơ hội tìm hiểu kỹ càng hơn về thuốc kháng sinh và hình thành các đột biến mạnh hơn. Việc dùng không đủ ngày lại làm cho vi khuẩn có khả năng hồi sinh do chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, vi khuẩn sẽ tích trữ thêm kinh nghiệm để biến đổi và thích nghi với kháng sinh, dẫn đến nhiễm vi khuẩn kháng thuốc.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

3.6K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan