Bài viết của Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Rối loạn tự miễn dịch cơ quan đơn độc, trước đây được gọi là viêm tụy tự miễn (AIP), viêm đường mật tự miễn và viêm đường mật xơ cứng tự miễn, hiện được coi là biểu hiện cụ thể của cơ quan của bệnh liên quan đến globulin miễn dịch hệ thống G4 (IgG4-RD). Viêm tụy tự miễn và IgG4-RD được đặc trưng bởi nồng độ kháng thể IgG4 (Ab) trong huyết thanh tăng cao, tích tụ các plasmacytes biểu hiện IgG4 trong các cơ quan bị ảnh hưởng và sự tham gia của nhiều cơ quan.
Đây được thiết lập tốt rằng đáp ứng IgG4 Ab tăng cường là một dấu hiệu của viêm tụy tự miễn và IgG4-RD để chẩn đoán và theo dõi hoạt động của bệnh. Tuy nhiên, một phần đáng kể các bệnh nhân có viêm tụy tự miễn và IgG4-RD phát triển các đáp ứng viêm xơ mãn tính có nồng độ huyết thanh bình thường của loại IgG này.
1. Globulin miễn dịch là các dấu ấn sinh học trong viêm tụy tự miễn và IgG4-RD
Chẩn đoán viêm tụy tự miễn và IgG4-RD dựa vào việc phát hiện nồng độ IgG4 Ab trong huyết thanh tăng cao cũng như các phát hiện bệnh lý đặc trưng, bao gồm sự thâm nhiễm nhiều tế bào huyết tương biểu hiện IgG4, xơ hóa storiform, và viêm tĩnh mạch tắc nghẽn. Do đó, nồng độ IgG4 Ab trong huyết thanh được sử dụng rộng rãi như một giá trị thiết lập đưa ra dấu ấn sinh học để chẩn đoán viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Hơn nữa, nồng độ IgG4 trong huyết thanh giảm nhanh chóng sau khi cảm ứng thuyên giảm bằng prednisolone .
2. Nồng độ IgG4 Ab trong huyết thanh ở bệnh nhân viêm tụy tự miễn
Nồng độ IgG4 Ab trong huyết thanh ở bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD cao hơn nhiều so với những người bị viêm tụy mãn tính do rượu và ở nhóm chứng khỏe mạnh trong nghiên cứu trước đây của các tác giả. Do đó, chắc chắn rằng việc đo nồng độ IgG4 Ab huyết thanh trong thực hành lâm sàng là cần thiết không chỉ để chẩn đoán viêm tụy tự miễn và IgG4-RD mà còn để đánh giá hoạt động của bệnh. Tuy nhiên, mức Ab IgG4 không phải lúc nào cũng cung cấp thông tin để chẩn đoán hoặc đánh giá hoạt động của bệnh ở những bệnh nhân này. Khoảng 20% bệnh nhân viêm tụy tự miễn có nồng độ IgG4 Ab trong huyết thanh bình thường. Hơn nữa, một phần đáng kể bệnh nhân ung thư tuyến tụy cũng có biểu hiện tăng nồng độ IgG4 Ab. Hơn nữa, bùng phát bệnh đôi khi được thấy ở những bệnh nhân có viêm tụy tự miễn và IgG4-RD, ngay cả trên nền của nồng độ IgG4 Ab trong huyết thanh được bình thường hóa
2.1 Vai trò của IgG4 Ab
IgG4 Ab là duy nhất ở chỗ nó có khả năng hạn chế trong việc kích hoạt các thụ thể Fcγ và bổ sung. Do đó, IgG4 Ab được coi là đóng vai trò không gây bệnh hơn là gây bệnh trong sự phát triển của viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Shiokawa và cộng sự đã trực tiếp giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng việc chuyển thụ động các loại phụ IgG của bệnh nhân vào chuột sơ sinh. Họ phát hiện ra rằng tổn thương tuyến tụy được gây ra thành công bằng cách chuyển thụ động tổng số IgG phân lập từ bệnh nhân viêm tụy tự miễn nhưng không bằng tổng số IgG từ nhóm chứng khỏe mạnh. Mức độ tổn thương tuyến tụy ở những con chuột sơ sinh được điều trị bằng IgG1 Ab từ những bệnh nhân viêm tụy tự miễn cao hơn nhiều so với những con nhận IgG4 Ab từ những bệnh nhân tương tự. Hơn nữa, tổn thương tuyến tụy do chuyển thụ động IgG1 Ab bị ức chế hiệu quả bởi đồng chuyển IgG4 Ab.
2.2 IgG1 Ab góp phần vào quá trình hình thành miễn dịch của viêm tụy tự miễn và IgG4-RD
Các nghiên cứu này được thực hiện bởi Shiokawa và cộng sự gợi ý mạnh mẽ rằng IgG1 Ab thay vì IgG4 Ab góp phần vào quá trình hình thành miễn dịch của viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Phù hợp với ý kiến này, nồng độ huyết thanh của cả IgG1 và IgG4 Abs cao hơn đáng kể ở bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD so với những người bị viêm tụy mãn tính do rượu hoặc ở nhóm chứng khỏe mạnh
2.3 Không có sự khác biệt đáng kể nào về nồng độ IgG3 Ab trong huyết thanh ở bệnh nhân viêm tụy tự miễn
Đối với các phân nhóm IgG khác, không có sự khác biệt đáng kể nào về nồng độ IgG3 Ab trong huyết thanh ở bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD so với ở bệnh nhân viêm tụy mãn tính do rượu hoặc ở nhóm chứng khỏe mạnh. Nồng độ IgG2 Ab trong huyết thanh thấp hơn đáng kể ở bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD so với bệnh nhân viêm tụy mãn tính do rượu. Ngược lại, một báo cáo khác cho thấy nồng độ IgG2 Ab trong huyết thanh tăng cao ở những bệnh nhân mắc bệnh IgG4-RD. Sự khác biệt này có thể được giải thích bởi sự khác biệt trong phân bố cơ quan của IgG4-RD. Nồng độ huyết thanh của phân loại IgG này được ưu tiên tăng cao ở những bệnh nhân có IgG4-RD quỹ đạo, nhưng không tăng ở những bệnh nhân có IgG4-RD tuyến tụy.
3. Nồng độ IgG ở bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD
Nồng độ IgG toàn phần trong huyết thanh cũng tăng ở bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Do đó, sự gia tăng nồng độ trong huyết thanh của cả IgG toàn phần và IgG4 là đặc điểm nổi bật của bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Ngược lại với nồng độ IgG và IgG4 tăng, nồng độ IgM và IgA trong huyết thanh giảm ở bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Hơn nữa, nồng độ IgM trong huyết thanh tương quan nghịch với nồng độ của IgG và IgG4. Giá trị chẩn đoán của việc giảm nồng độ IgA và IgM trong huyết thanh cần được xác định trong các nghiên cứu trong tương lai.
Thường quan sát thấy đồng thời viêm tụy tự miễn / IgG4-RD và các rối loạn dị ứng. Trên thực tế, nồng độ IgE trong huyết thanh ở những bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD cao hơn đáng kể so với những người bị viêm tụy mãn tính do rượu và ở những nhóm chứng khỏe mạnh. Điều này làm tăng khả năng nồng độ IgE trong huyết thanh có thể được sử dụng làm dấu ấn sinh học cho viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Phù hợp với ý kiến này, khoảng 50% bệnh nhân viêm tụy tự miễn và IgG4-RD có biểu hiện tăng nồng độ IgE trong huyết thanh. Hơn nữa, những thay đổi về nồng độ IgE trong huyết thanh có liên quan đến sự tái phát của những rối loạn này. Do đó, nồng độ IgE trong huyết thanh có thể được sử dụng như một dấu ấn sinh học để chẩn đoán và dự đoán tái phát ở viêm tụy tự miễn và IgG4-RD
Tự kháng thể miễn dịch là các dấu ấn sinh học trong viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Mặc dù viêm tụy tự miễn và IgG4-RD được coi là do phản ứng tự miễn dịch gây ra, nhưng các auto Abs chịu trách nhiệm cho sự phát triển của tự miễn dịch vẫn chưa được xác định. Gần đây, ba loại auto Abs khác nhau đã được xác định. Các autolAb này nhận ra laminin 511, annexin A11 và galectin-3. Năm mươi mốt phần trăm bệnh nhân viêm tụy tự miễn dương tính với autoAb chống lại laminin 511-E8, một biến thể cắt ngắn của protein nền ngoại bào laminin 511. Hơn nữa, IgG1 huyết thanh được tinh chế từ bệnh nhân viêm tụy tự miễn đồng khu trú với laminin 511 trong tuyến tụy của chuột sơ sinh khi thụ động chuyển giao . Huber và cộng sự đã xác định được annexin A11, một loại photpho phụ thuộc canxi protein liên kết lipid, như là một tự kháng nguyên ứng cử viên trong viêm tụy tự miễn.
IgG1 auto Abs đóng vai trò gây bệnh trong sự phát triển của viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Điều thú vị là annexin A11 đặc hiệu IgG4 và IgG1 Abs được tinh chế từ những bệnh nhân có biểu mô kháng nguyên dùng chung viêm tụy tự miễn và IgG4 auto Abs ức chế sự gắn kết gây bệnh của IgG1 Ab với các biểu mô được chia sẻ. Những dữ liệu này cho thấy rằng IgG1 auto Abs thay vì IgG4 auto Abs đóng vai trò gây bệnh trong sự phát triển của viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Việc xác nhận những kết quả này đang chờ các nghiên cứu trong tương lai giải quyết tiện ích chẩn đoán của các autoAns này ở một số lượng lớn bệnh nhân mắc viêm tụy tự miễn và IgG4-RD. Tuy nhiên, việc xác định các autoAns liên quan đến viêm tụy tự miễn và IgG4-RD ủng hộ mạnh mẽ ý kiến cho rằng những rối loạn này phát sinh từ các phản ứng tự miễn dịch.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.