Viêm phế quản phổi ở người lớn là một bệnh rất dễ tái phát, đặc biệt là khi thay đổi khí hậu đột ngột. Viêm phế quản nếu không được điều trị đúng cách có thể dẫn đến những biến chứng, gây tắc nghẽn phế quản.
1. Viêm phế quản
Phế quản là những đường dẫn khí lớn, được nối từ đường khí quản đến phổi. Phế quản sau đó được chia thành nhiều ống khí nhỏ được gọi là tiểu phế quản tạo nên phổi. Phế nang là những túi khí nhỏ, ở cuối các tiểu phế quản, nơi diễn ra sự trao đổi oxy từ phổi và carbon dioxide từ máu.
Viêm phế quản gây ứ đọng chất dịch bên trong những phế nang, làm suy yếu chức năng phổi, gây ra những vấn đề về hô hấp. Viêm phế quản là một dạng viêm phổi ảnh hưởng đến cả phế quản lẫn phế nang bên trong phổi.
Khi các phế quản bị viêm sẽ dẫn đến tổn thương lớp tế bào phủ mặt bên trong lòng ống phế quản, phù nề tổ chức dưới niêm mạc, gây co thắt các cơ trơn dưới lớp mô này và tiết dịch vào lòng ống phế quản dẫn đến hiện tượng như khò khè có đờm, ho,...
2. Nguyên nhân viêm tiểu phế quản
Nguyên nhân gây viêm phế quản phổ biến nhất là nhiễm trùng do vi khuẩn, ví dụ như streptococcus pneumoniae, haemophilus unfluenzae loại B, hay do nhiễm trùng virus và nấm.
Cũng như các bệnh lý viêm đường hô hấp, viêm phế quản phổi lây qua đường hô hấp thông qua các giọt dịch tiết như nước mũi, đờm, nước bọt,... mà người bệnh thải ra và người khác hít phải.
Mùa đông xuân có thời tiết rất thích hợp cho virus phát triển, do đó viêm phế quản thường lên cao đỉnh điểm ở mùa này.
3. Triệu chứng viêm phế quản
Viêm phế quản có một số triệu chứng điển hình như:
- Ho: Là một triệu chứng không đặc hiệu, nó thể hiện có tình trạng viêm ở đâu đó trên đường hô hấp, từ mũi họng xuống đến phổi. Tuy nhiên với các nhà lâm sàng có kinh nghiệm có thể nghe tiếng ho mà phán đoán được người bệnh bị viêm phần nào của đường hô hấp. Ho có thể là ho khan hay ho đờm, có cơn hay ho từng tiếng...
- Sốt: Sốt cao hoặc nhẹ hoặc không sốt, sốt cơn hoặc liên tục.
- Viêm long hô hấp trên: Sổ mũi, nghẹt mũi.
- Tiết đờm: Đờm là dịch tiết của đường hô hấp, là sản phẩm của phản ứng viêm. Đờm có thể có màu xanh, vàng hay trắng, màu đờm không giúp phân biệt viêm nhiễm này là do vi khuẩn hay virus.
- Khò khè: Là do lòng phế quản bị thu hẹp do phù nề thành phế quản, co thắt cơ trơn phế quản, đờm trong lòng phế quản... Tiếng khò khè được phát ra do không khí qua lại khe hẹp phát ra tiếng. Cần phân biệt với tiếng khụt khịt mũi do đang bị viêm mũi phát ra. Nếu nghẹt mũi thì thường xảy ra ban đêm, lúc nằm, tiếng khò khè phát ra gần ngay mũi miệng, vệ sinh sạch mũi đi thì bớt. Tiếng khò khè trong bệnh viêm phế quản khác với khò khè trong hen phế quản ở chỗ khò khè này không hoặc đáp ứng kém với thuốc khí dung.
- Các triệu chứng khác: Thở nhanh kèm khó thở ít gặp đối với viêm phế quản thông thường. Nếu có thở nhanh kèm khó thở cần phân biệt với các bệnh lý khác nghiêm trọng hơn như: viêm phổi, hen, dị vật đường thở...
Ngoài ra, khi thăm khám lâm sàng, bác sĩ có thể nghe thấy một số tiếng thổi bất thường ở phổi.
4. Điều trị viêm phế quản
Nguyên tắc điều trị viêm phế quản là điều trị theo nguyên nhân. Khoảng 90% nguyên nhân dẫn tới viêm phế quản là do virus, do đó không cần điều trị kháng sinh. Thuốc kháng virus không khuyến cáo sử dụng thường quy, tuy nhiên bác sĩ có thể cân nhắc nếu nghi ngờ tác nhân là virus cúm, nếu sử dụng thuốc kháng virus cúm cần cho sớm trong 36 giờ đầu kể từ khi khởi phát triệu chứng.
Liệu pháp kháng sinh chỉ dùng trong trường hợp nhiễm khuẩn do vi khuẩn, người bệnh có những đặc điểm như sốt kéo dài, đờm xanh, vàng hoặc đờm mủ.
Ngoài ra, cần điều trị triệu chứng như:
- Sốt: thuốc sử dụng để hạ sốt như: paracetamol và ibuprofen. Dùng thuốc hạ sốt khi sốt cao từ 38,5 độ trở lên. Với những trẻ có bệnh lý tim, phổi, thần kinh... cần tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng thuốc hạ sốt. Tuyệt đối không dùng aspirin để hạ sốt cho trẻ em, người bị hen, và người bị loét dạ dày - tá tràng....
- Ho: Ho là một phản xạ có lợi để tống đờm, vi khuẩn ra ngoài. Tuy nhiên, khi tình trạng ho quá nhiều dẫn đến nôn ói, mất ngủ... Người bệnh nên uống nhiều nước giúp cải thiện việc ho, khạc đờm. Ngoài ra, có thể dùng thêm các thuốc long đờm trong trường hợp có đờm đặc, hoặc khó khạc đờm. Nhưng người bệnh không nên dùng thuốc giảm ho, do các thuốc giảm ho thường làm giảm việc bài tiết đờm, do vậy làm chậm sự phục hồi của bệnh nhân.
- Sổ mũi, nghẹt mũi: Không dùng các thuốc kháng histamine và các thuốc chống sung huyết mũi để làm thông khô mũi vì nguy cơ tác dụng phụ cao. Việc vệ sinh mũi bằng nước muối sinh lý được khuyến khích. Phun hơi ẩm trong phòng ở có thể giúp giảm khô mũi. Đối với trẻ em, không cần khí dung nước muối hoặc thuốc giãn phế quản nếu trẻ không có khò khè, hoặc khò khè nhưng không đáp ứng với thuốc giãn phế quản.
- Thuốc làm loãng đờm: Trên thị trường có rất nhiều loại thuốc có tác dụng làm loãng đờm, giảm độ dính của đờm như acetylcystein, bromhexin, carbocystein... Tuy nhiên hiệu quả của những thuốc này ở trẻ em khá hạn chế. Thuốc chỉ phát huy tác dụng khi trẻ được uống đủ nước. Mà nước bản thân nó đã là thuốc loãng đờm tốt nhất, vì vậy khuyến khích trẻ uống nhiều nước là biện một pháp điều trị hỗ trợ quan trọng.
- Khí dung thuốc giãn phế quản: Có thể dùng thuốc giãn phế quản khí dung, tuy nhiên chỉ khí dung nếu tình trạng khò khè có cải thiện phần nào sau khí dung, do vậy cần thiết khí dung tại cơ sở y tế và bác sĩ sẽ đánh giá hiệu quả của thuốc. Không nên sử dụng các thuốc giãn phế quản đường uống vì hiệu quả thấp mà lại có tác dụng phụ như: run tay, hồi hộp, đánh trống ngực, đỏ mặt...
- Khoáng chất và vitamin: Vitamin C được chứng minh là không giúp ích gì trong điều trị đợt cấp của viêm nhiễm hô hấp. Kẽm có thể có tác dụng nhưng rất ít và tác dụng phụ của kẽm là gây buồn nôn.
Viêm phế quản ở người lớn rất dễ mắc phải, nhất là mùa đông xuân. Do đó, để phòng tránh, người bệnh cần tránh khói bụi, môi trường ô nhiễm và giữ ấm cho cơ thể. Bổ sung vi chất và tăng cường dinh dưỡng. Khi có những biểu hiện ho, đờm, sốt,... cần đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị kịp thời.
XEM THÊM: