Trang chủ Tìm bác sĩ Bác sĩ chuyên khoa II, Bác sĩ Đặng Thị Ngọc Anh
Bác sĩ chuyên khoa II, Bác sĩ
Đặng Thị Ngọc Anh
Đăng ký khám
Giới thiệu

Bác sĩ Đặng Thị Ngọc Anh nguyên là Bác sĩ Chẩn đoán hình ảnh tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang. Bác sĩ đã có 13 năm kinh nghiệm trong trong lĩnh vực chẩn đoán hình ảnh.

Bác sĩ Ngọc Anh được đào tạo Bác sĩ Chuyên khoa I, chuyên khoa II tại Đại học Y Hà Nội. Ngoài ra, bác sĩ Ngọc Anh còn thường xuyên nâng cao trao đổi kiến thức chuyên môn và làm việc nhóm hiệu quả.

Hiện tại, BSCK II Đặng Thị Ngọc Anh đang giữ chức vụ là Bác sĩ Chẩn đoán hình ảnh tại Trung tâm sàng lọc Vú - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.

Chuyên môn
Bác sĩ Chẩn đoán hình ảnh
Dịch vụ
  • Chẩn đoán hình ảnh tuyến vú: Siêu âm, XQuang, Chụp cộng hưởng từ,… 
  • Thủ thuật can thiệp: sinh thiết vú, khu trú.

09/2018 - 12/2020: Bác sĩ chuyên khoa cấp II - Chẩn đoán hình ảnh - Đại học Y Hà Nội


11/2019: Chứng nhận tham gia đào tạo Skill Workshop Breast The University of Sydney


05/2018: Giấy chứng nhận Hội thảo Siêu âm đàn hồi tuyến vú và Siêu âm thai, chi hội siêu âm Việt Nam


12/2017: Hội thảo Tầm soát ung thư vú bằng công nghệ quét khối 3D kết hợp siêu âm đàn hồi mô, Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội


10/2014 - 10/2016: Bác sĩ chuyên khoa cấp I - Chẩn đoán hình ảnh - Đại học Y Hà Nội


05/2015 : Tham gia khóa đào tạo Chẩn đoán hình ảnh Thần kinh - Bệnh viện Bạch Mai


08/2015 - 10/2015: Chứng chỉ Siêu âm chẩn đoán trong sản phụ khoa trình độ nâng cao - Bệnh viện Phụ sản Trung Ương


09/2004 - 07/2020 : Bằng tốt nghiệp Bác sĩ đa khoa - Đại học Y Hải Phòng


07/2021 - Đến nay: Bác sĩ tại Đơn nguyên Vú- Khoa Chẩn đoán hình ảnh và Y học hạt nhân - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City


2011 - 07/2021: Bác sĩ tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Đa khoa Đức Giang.


Công trình nghiên cứu đã được xuất bản trên các tạp chí chuyên ngành trong nước: Dang T.N.A, Vu L, Pham M.T, Lê Q.P (2020). “Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh và giá trị của cộng hưởng từ 1.5 Tesla trong chấn thương dây chằng, sụn chêm khớp gối”, Tạp chí Điện quang và Y học hạt nhân (41),86-92. Doi: 10.55046/vjrnm.41.203.2020