Truyền tiểu cầu được chỉ định để điều trị và phòng ngừa chảy máu ở bệnh nhân do giảm tiểu cầu nghiêm trọng. Tình trạng này có thể là hệ quả của suy tủy, làm giảm sản xuất tiểu cầu hay do rối loạn chức năng tiểu cầu. Vì có bản chất là một loại chế phẩm máu, việc truyền tiểu cầu cần thực hiện đúng chỉ định, tuân thủ đúng nguyên tắc để đem lại hiệu quả điều trị tối ưu.
1. Chế phẩm tiểu cầu là gì?
Tiểu cầu là những tế bào nhỏ trong máu có vai trò hình thành cục máu đông, giúp cầm máu khi mạch máu bị tổn thương. Chúng thực chất là các mảnh vỡ của từ các tế bào tiểu cầu gốc trong tủy xương, được giải phóng vào máu và đi khắp cơ thể. Khi thành mạch mất tính nguyên vẹn, hệ thống tín hiệu kích hoạt tiểu cầu sẽ báo động làm tiểu cầu tập trung lại nơi bị chảy máu, đóng vai trò khởi động một chuỗi phản ứng đông cầm máu tiếp theo.
Một số bệnh lý có thể gây giảm số lượng tiểu cầu trong máu như suy tủy dẫn đến giảm số lượng tiểu cầu hay tiểu cầu bị rối loạn chức năng bẩm sinh, thứ phát. Điều này có thể làm tăng nguy cơ chảy máu tự nhiên hay khó cầm máu với các triệu chứng chảy máu cam, chảy máu răng, vết bầm tím trên da hay nặng hơn là xuất huyết tiêu hóa, xuất huyết não, đôi khi nguy hưởng đến tính mạng.
Như vậy, nếu số lượng tiểu cầu trong máu quá ít hay đang diễn tiến chảy máu, các bác sĩ sẽ chỉ định truyền tiểu cầu. Đây là một loại chế phẩm máu lấy từ những người hiến máu toàn phần hay chỉ hiến tiểu cầu. Lúc này, việc truyền tiểu cầu cũng được thực hiện tương tự như truyền các chế phẩm máu khác. Các đơn vị tiểu cầu sẽ được đưa vào cơ thể qua đường truyền tĩnh mạch và sẽ có tác dụng cầm máu ngay lập tức.
Do tiểu cầu có tính kết dính cũng như đời sống vốn rất ngắn, nếu chưa có chỉ định dùng, các đơn vị tiểu cầu có hạn sử dụng theo khuyến nghị là không quá 05 ngày kể từ ngày lấy máu và phải bảo quản ở nhiệt độ từ 20oC đến 24oC trong điều kiện được lắc liên tục.
2. Trường hợp nào cần truyền tiểu cầu?
Chỉ định lâm sàng truyền tiểu cầu cho bệnh nhân có chảy máu có ý nghĩa lâm sàng bao gồm:
- Truyền tiểu cầu được chỉ định cho bệnh nhân chảy máu có ý nghĩa lâm sàng ở người giảm tiểu cầu ngay cả khi số lượng tiểu cầu trên 10 x 109/L.
- Ở những bệnh nhân bị chảy máu nghiêm trọng cần truyền máu với thể tích lớn. Ở những bệnh nhân này, việc sử dụng máu toàn phần, bao gồm cả truyền máu và truyền tiểu cầu có thể làm giảm nguy cơ tử vong.
- Truyền tiểu cầu được chỉ định cho bệnh nhân rối loạn chức năng tiểu cầu bẩm sinh hoặc mắc phải cần phẫu thuật hoặc bệnh nhân đang điều trị thuốc kháng tiểu cầu (trừ aspirin đơn thuần) cần can thiệp phẫu thuật khi đang bị chảy máu diễn tiến. Số lượng tiểu cầu không đáng tin cậy khi được xét nghiệm trong những trường hợp này.
Dù chưa có sự đồng thuận về ngưỡng tiểu cầu mục tiêu để kiểm soát chảy máu ở bệnh nhân bị giảm tiểu cầu thứ phát do rối loạn đông máu nội mạch lan tỏa, việc truyền tiểu cầu nhằm duy trì số lượng tiểu cầu trên 50x109/L được phần lớn chuyên gia đồng thuận cũng như điều chỉnh các nguyên nhân cơ bản và thay thế các yếu tố đông máu. Truyền tiểu cầu lại không được chỉ định cho bệnh nhân mắc đông máu nội mạch lan tỏa mạn tính hoặc người không bị chảy máu.
Truyền tiểu cầu không được chỉ định trong giảm tiểu cầu miễn dịch trừ khi có chảy máu đáng kể trên lâm sàng.
Chỉ định lâm sàng cho truyền tiểu cầu dự phòng để phòng ngừa chảy máu bao gồm:
Bệnh nhân bị giảm tiểu cầu nặng trải qua hóa trị và ghép tế bào gốc tạo máu nên được xem xét để truyền tiểu cầu dự phòng khi số lượng dưới 10 x 109/ L khi không có yếu tố rủi ro và ở mức dưới 20 x 109/L khi có các yếu tố có thể làm giảm tiểu cầu thêm như sốt.
Ở những bệnh nhân nguy kịch, trong trường hợp không chảy máu cấp tính, có thể truyền tiểu cầu khi số lượng tiểu cầu dưới 20 x 109/L. Số lượng tiểu cầu ở trẻ nhỏ cần được quản lý chặt chẽ hơn và việc truyền tiểu cầu có thể được đặt ra khi số lượng tiểu cầu ở trẻ sơ sinh dưới 25 x 109/L với trẻ sơ sinh đủ tháng và dưới 30 đến 50 x 109/L với trẻ sơ sinh non tháng hoặc bất kỳ trẻ sơ sinh nào bị giảm tiểu cầu sơ sinh.
Đối với bệnh nhân có nguyên nhân khác gây suy tủy xương với giảm sản xuất tiểu cầu mãn tính, không có bằng chứng để đề nghị một ngưỡng cụ thể để truyền tiểu cầu và những bệnh nhân như vậy nên được quản lý theo đặc điểm từng cá nhân. Truyền tiểu cầu dự phòng dài hạn có nguy cơ xảy ra các biến chứng, đòi hỏi các lần sau phải cần truyền tiểu cầu đã qua chiếu xạ.
Ở những bệnh nhân trải qua các thủ thuật xâm lấn, không có bằng chứng để xác định ngưỡng số lượng tiểu cầu có liên quan đến tăng nguy cơ chảy máu. Tuy nhiên, đối với bệnh nhân trải qua các thủ thuật như đặt catheter tĩnh mạch trung tâm, chọc dò tủy sống, sinh thiết và phẫu thuật nội soi, số lượng tiểu cầu giữ trên 50 x 109/L mới được coi là an toàn. Bệnh nhân có số lượng tiểu cầu thấp hơn vẫn có thể cho phép thực hiện các thủ thuật nhỏ như sửa chữa nha khoa đơn giản, sinh thiết da, đặt kim tĩnh mạch ngoại biên... sau đó cần băng ép kỹ lưỡng. Đối với bệnh nhân cần trải qua phẫu thuật nội sọ, nội nhãn và thần kinh, số lượng tiểu cầu được khuyến cáo là nên giữ trên 100 x 109/L.
Ở những bệnh nhân bị chấn thương đầu, nên giữ số lượng tiểu cầu trên 100 x 109/L.
Chống chỉ định lâm sàng khi truyền tiểu cầu bao gồm:
- Truyền tiểu cầu không được chỉ định ở những bệnh nhân chảy máu không liên quan đến giảm số lượng tiểu cầu hoặc khiếm khuyết chức năng tiểu cầu.
- Đối với bệnh nhân bị giảm tiểu cầu do Heparin và giảm tiểu cầu huyết khối, việc truyền tiểu cầu là chống chỉ định trừ khi bị xuất huyết có nguy cơ đe dọa đến tính mạng
- Việc sử dụng tiểu cầu để dự phòng chảy máu thường quy sau phẫu thuật tim là chống chỉ định.
3. Những lưu ý gì khi cần truyền tiểu cầu?
Vì tiểu cầu cũng là một dạng chế phẩm máu, truyền tiểu cầu cũng cần tuân thủ theo các quy định nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nguy cơ xảy ra các tai biến truyền máu cũng không thể tránh khỏi một cách tuyệt đối, nhất là khi tiểu cầu vẫn có tính kháng nguyên và tính kết dính cao. Sau đây là những điều cần lưu ý khi truyền tiểu cầu:
3.1. Phản ứng với tiểu cầu
Trong quá trình truyền máu, người bệnh luôn được kiểm tra nhiệt độ, mạch và huyết áp thường xuyên. Điều này là để đảm bảo không xảy ra phản ứng với tiểu cầu hay để phát hiện sớm nhằm xử trí kịp thời. Phản ứng thường gặp có thể là:
- Cảm giác rùng mình
- Tăng thân nhiệt
- Ngứa
- Phát ban da
Nếu có các dấu hiệu nêu trên, người bệnh cần thông báo cho nhân viên y tế để ngừng truyền máu ngay lập tức và nhanh chóng điều trị triệu chứng. Nếu bệnh nhân còn chỉ định truyền tiểu cầu tiếp tục, nên xem xét chỉ định dùng tiểu cầu đã qua chiếu xạ.
3.2. Tình trạng đề kháng tiểu cầu
Vì tiểu cầu vốn dĩ là những mảnh vỡ tế bào, không có hình dạng nguyên vẹn đồng nhất nên vẫn có tính kháng nguyên và có thể kích hoạt hệ thống miễn dịch phản ứng đào thải. Theo đó, trên những bệnh nhân này, tình trạng thiếu hụt tiểu cầu sẽ không thể cải thiện dù có truyền tiểu cầu.
Lúc này, truyền tiểu cầu không có chỉ định mà cần tích cực tìm kiếm các nguyên nhân dẫn đến đề kháng tiểu cầu.
3.3. Nguy cơ lây nhiễm
Vì tiểu cầu không thể tổng hợp được mà lấy từ những người hiến máu, đây cũng có thể là một con đường lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường máu.
Mặc dù những người hiến máu hoặc tiểu cầu luôn được sàng lọc cẩn thận các bệnh nhiễm trùng hoặc virus như viêm gan hoặc HIV để đảm bảo an toàn nhất có thể, nguy cơ lây nhiễm vẫn có thể xảy ra. Tuy nhiên, so sánh với lợi ích đem đến, việc truyền tiểu cầu vẫn có chỉ định khi người bệnh thiếu hụt tiểu cầu nặng hay có tình trạng xuất huyết đe dọa tính mạng.
3.4. Chế phẩm tiểu cầu chiếu xạ
Trên người bệnh bị ung thư hạch Hodgkin hoặc đã dùng một số loại thuốc hóa trị, liệu pháp nhắm trúng đích hay sau khi ghép tế bào gốc, việc truyền tiểu cầu chỉ được tiến hành khi sẵn có các chế phẩm tiểu cầu chiếu xạ.
Chế phẩm tiểu cầu chiếu xạ nói riêng, các chế phẩm máu chiếu xạ nói chung, sẽ làm giảm nguy cơ xảy ra phản ứng tự miễn. Điều này cũng nên áp dụng tương tự ở các bệnh nhân có tiền căn sốt khó kiểm soát khi truyền máu hay mắc các bệnh lý đòi hỏi phải truyền máu số lượng lớn và kéo dài.
Tóm lại, những trường hợp đang chảy máu và có số lượng tiểu cầu thấp hay giảm tiểu cầu đe dọa chảy máu sẽ có chỉ định truyền tiểu cầu. Vì đây cũng là một loại chế phẩm máu, lợi ích và nguy cơ khi truyền tiểu cầu cũng cần được so sánh. Đồng thời, người bệnh cần tích cực tìm nguyên nhân gây suy giảm số lượng và chức năng tiểu cầu, đảm bảo chẩn đoán và điều trị vững chắc về sau.
Để đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Quý Khách có thể liên hệ Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc, hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI ĐÂY
Nguồn tham khảo: Blood.gov.au; Annals.org.
XEM THÊM: