Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Bác sĩ Chuyên khoa I Lê Thị Phương - Bác sĩ Sản phụ khoa, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long.
Thai trứng là bệnh lý của các gai nhau phát triển bất thường, ảnh hưởng xấu đến bào thai cũng như nguy cơ tiến triển ác tính về sau. Hiểu biết về bệnh lý này chưa phổ biến kèm với việc không tuân thủ khám thai định kỳ dẫn đến chậm trễ trong điều trị, để lại hậu quả đáng tiếc.
1. Thai trứng là gì?
Thông thường, khi tinh trùng kết hợp với trứng, hiện tượng thụ tinh sẽ xảy ra. Trứng thụ tinh sẽ di chuyển vào lòng tử cung, bám dính và làm tổ trên niêm mạc tử cung, phát triển thành thai nhi và các phần phụ như bánh nhau và túi ối.
Thai trứng là một thai kỳ vẫn có sự thụ tinh nhưng bất thường trong sự phát triển của các gai nhau. Lúc này, nguyên bào nuôi phát triển quá nhanh nên tổ chức liên kết bên trong gai nhau cùng với các mạch máu không phát triển theo kịp. Hậu quả là các gai nhau không còn tổ chức liên kết và không còn các mạch máu nuôi, thoái hóa, phình to và trở thành các bọc nước, dính chùm với nhau như chùm nho, nằm trong buồng tử cung và lấn át cả bào thai.
Thai trứng được phân chia thành hai loại. Nếu trứng phát triển thành một khối thống nhất và hoàn toàn không có phôi thai thì được gọi là thai trứng toàn phần. Nếu vẫn có phôi thai nhưng do bị trứng phát triển nhanh hơn, gây chèn ép thì được gọi là thai trứng bán phần.
Phần lớn các trường hợp thai trứng là lành tính. Tuy nhiên, có 15% thai trứng toàn phần và 3% thai trứng bán phần có nguy cơ tiến triển đến ung thư nguyên bào nuôi.
2. Nguyên nhân gây hình thành thai trứng là gì?
Cho đến nay, nguyên nhân gây ra thai trứng vẫn chưa được biết rõ. Các giả thiết đã được đặt ta là do thiếu dinh dưỡng chủ yếu là thiếu đạm, sinh con ở tuổi còn quá trẻ hay quá lớn tuổi, sinh đẻ nhiều,...
Ngoài ra, có một số nghiên cứu đã tìm thấy có bất thường về thể nhiễm sắc ở các tế bào nuôi trong thai trứng và ung thư nguyên bào nuôi hay cả các rối loạn miễn dịch. Theo đó, nếu khả năng miễn dịch tốt, tế bào nuôi xâm nhập vào mạch máu sẽ bị tiêu diệt và không phát triển được. Trong trường hợp sản phụ không đủ sức đề kháng, không tạo được kháng thể để chống lại sự phát triển của các tế bào nuôi thì thai trứng sẽ xảy ra.
3. Dấu hiệu của mang thai trứng như thế nào?
Xuất huyết âm đạo là triệu chứng quan trọng đầu tiên. Máu màu đen hoặc đỏ, chảy bất thường kéo dài, lượng ít, dai dẳng trong khoảng từ tháng thứ hai đến tháng thứ tư khiến sản phụ xanh xao, niêm mạc nhợt nhạt, mệt mỏi, vẻ mặt hốc hác. Ngoài ra, sản phụ cũng có thể bị ốm nghén nặng nề hơn bình thường, bị nôn nhiều hơn các lần có thai trước và kéo dài ngay cả khi qua đến tam cá nguyệt giữa
Đi thăm khám không nghe thấy tim thai. Mật độ tử cung mềm, không sờ thấy hay rất khó sờ thấy các phần của thai nhi do bị chèn ép. Tử cung to hơn tuổi thai do tế bào nuôi tăng sinh quá mức, ngoại trừ thai trứng thoái hoá thì tử cung lại nhỏ hơn tuổi thai. Ngoài ra, sản phụ có thể bị phù, huyết áp cao, tiểu đục do mất protein qua niệu. Nhịp tim nhanh, da bàn tay ấm, run tay, tuyến giáp to và đôi khi có dấu hiệu vàng da, nước tiểu vàng...
Làm xét nghiệm thấy nồng độ ßhCG tăng rất cao, cao hơn tuổi thai và tăng nhanh liên tục. Khi siêu âm cũng không nghe thấy tim thai, không thấy hình ảnh phôi thai mà chỉ thấy lốm đốm được ví như hình ảnh tuyết rơi, hình ảnh chùm nho.
4. Thai trứng có nguy hiểm không?
Nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị sớm, thai trứng gây chảy máu âm đạo rỉ rả sẽ khiến sản phụ rơi vào tình trạng thiếu máu mạn tính. Nếu thai trứng bị kích thích và bị sẩy tự nhiên, tử cung sẽ bị chảy máu rất nhiều và bệnh nhân dễ rơi vào sốc mất máu, nguy kịch đến tính mạng. Thậm chí, thành tử cung do bị thai trứng xâm lấn nên khó co hồi tốt, nguy cơ bị băng huyết cao hay dễ sót trứng, sót nhau và phải can thiệp bằng cách cắt trọn tử cung. Nếu là thai trứng ác tính ăn xuyên qua các lớp cơ tử cung, lòng tử cung bị thủng, gây xuất huyết dữ dội tràn ngập ổ bụng cũng rất nguy hiểm.
Trong các trường hợp thai trứng không điều trị dứt điểm sẽ tiến triển thành ung thư nguyên bào nuôi, đòi hỏi phải hóa trị và theo dõi lâu dài về sau. Từ đó, khả năng có thai lại sẽ gặp khó khăn.
Nếu được phát hiện sớm và can thiệp triệt để, thai trứng lành tính thường ít gây hậu quả nghiêm trọng, tử cung sẽ co hồi tốt, nhanh cầm máu và nồng độ hCG sẽ giảm nhanh.
5. Cách điều trị thai trứng như thế nào?
Một khi đã xác định là thai trứng thì phải nhanh chóng đưa ra quyết định chấm dứt thai kỳ.
Khối thai trứng có thể lấy ra khỏi lòng tử cung với các biện pháp can thiệp tối thiểu trên tử cung. Trong phần lớn các trường hợp thai trứng không phức tạp, bác sĩ truyền oxytocin và dùng dụng cụ nong cổ tử cung kết hợp với máy hút để hút trứng ra cho tới khi tử cung co nhỏ lại. Sau đó, các túi trứng còn sót lại sẽ được gắp hết ra ngoài bằng kìm hình tim. Cuối cùng là dùng thìa to và cùn nạo lại buồng tử cung để đảm bảo không bị sót trứng. Sau thủ thuật, bệnh nhân luôn được chỉ định kháng sinh để đề phòng nhiễm khuẩn.
Trong các trường hợp thai trứng xâm lấn thành tử cung, ăn lan phức tạp hay có nguy cơ biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi cao, chỉ định cắt tử cung dự phòng cả khối sẽ được đặt ra. Các đối tượng phù hợp với biện pháp can thiệp này là phụ nữ trên 35 tuổi, đã có đủ con hay có bệnh lý tại tử cung phối hợp. Đối với thai trứng ác tính, không chỉ cắt trọn tử cung mà còn phải điều trị bằng hoá chất chống ung thư bổ túc sau đó.
Chỉ riêng các trường hợp bệnh nhân còn trẻ tuổi, chưa có con mới được xem xét vấn đề nạo trứng lấy nhân di căn, hóa trị kèm theo để giữ lại tử cung. Tuy nhiên, sau đó, bệnh nhân cần được lên kế hoạch theo dõi sát, nếu thấy điều trị bảo tồn không kết quả thì phải mổ cắt tử cung.
6. Theo dõi sau nạo thai trứng ra sao?
Các mẫu mô sau nạo thai trứng đều được gửi xét nghiệm giải phẫu bệnh lý để xác định thai trứng lành tính hay ác tính.
Thông thường sau nạo thai trứng 3 đến 4 tuần, cấu trúc và sinh lý tử cung sẽ trở lại bình thường. Nếu tử cung còn to, âm đạo còn ra máu, nguy cơ thai trứng đã biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi.
Đồng thời, nồng độ hCG cũng sẽ được định lượng mỗi tuần một lần từ lúc nạo cho đến khi hCG xuống âm tính. Lúc này, thời điểm định lượng hCG sẽ dãn cách dần nếu các kết quả trước đó đều âm tính. Ngược lại, nếu nồng độ hCG không giảm hay vẫn còn cao bất thường thì phải nghĩ đến khả năng đã chuyển biến thành ác tính.
Về việc có thai lại, là trì hoãn tối thiểu sau hai năm. Để tăng tính tuân thủ các biện pháp tránh thai, bác sĩ cần giải thích cho bệnh nhân hiểu rằng có thai lại sớm sẽ làm tăng nguy cơ thai trứng tái phát cũng như tiến triển đến ung thư nguyên bào nuôi rất cao. Không chỉ như vậy, bác sĩ cũng hướng dẫn bệnh nhân tránh thai bằng các phương pháp không can thiệp vào tử cung như dùng bao cao su phối hợp với canh ngày rụng trứng hay xuất tinh ngoài âm đạo. Tuyệt đối không dùng thuốc uống tránh thai hay dụng cụ tử cung nhằm thuận tiện trong việc theo dõi sau nạo thai trứng.
Tóm lại, thai trứng dù không thường gặp nhưng gây dự hậu nặng nề nếu không được phát hiện sớm và can thiệp đúng cách. Điều tốt là nên có kế hoạch sinh con, tuân thủ khám thai định kỳ cũng như theo dõi khi mắc bệnh, tránh thai hiệu quả để đảm bảo sức khỏe sinh sản cũng như cho chính bản thân mình.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.