Xét nghiệm kháng thể kháng ty thể thường được sử dụng để hỗ trợ chuẩn đoán bệnh xơ gan mật nguyên phát (PBC). Xét nghiệm AMA-M2 được hiểu như thế nào? Bài viết dưới đây cho chúng ta hiểu thêm về xét nghiệm này.
1. AMA-M2 là gì?
AMA-M2 là một hệ thống xét nghiệm in-vitro, tự động, dựa trên ELISA để xác định định lượng kháng thể IgG chống lại kháng nguyên phụ loại M2 ty thể trong huyết thanh hoặc huyết tương người.
Kháng thể kháng ty thể (AMA) là một nhóm tự kháng thể không đồng nhất chống lại các protein khác nhau của màng ngoài và trong ty thể. Các tự kháng thể của phân nhóm M2 liên kết với các tiểu đơn vị E2 của phức hợp pyruvate dehydrogenase (PDC-E2), phức hợp chuỗi nhánh-2-oxoacid dehydrogenase (BCOADC-E2) và phức hợp 2-oxoglutarate-dehydrogenase E (OGDC-E2) . AMA-M2 rất nhạy và đặc hiệu. Chúng đại diện cho một dấu hiệu huyết thanh của xơ gan mật nguyên phát. Ngoài việc phát hiện sớm và chẩn đoán phân biệt, xác định cấu trúc AMA cho phép phân loại miễn dịch và tiên lượng xơ gan mật nguyên phát. Ở những bệnh nhân mắc các bệnh tự miễn khác, đặc biệt là bệnh collagenose, việc phát hiện AMA-M2 có thể giúp phát hiện xơ gan mật nguyên phát đang phát triển hoặc liên quan.
Kháng thể kháng kháng thể (AMA) là tự kháng thể có liên quan chặt chẽ với bệnh viêm đường mật nguyên phát (PBC), trước đây được gọi là xơ gan mật nguyên phát. Xét nghiệm này phát hiện và đo lượng (hiệu giá) AMA trong máu. Viêm đường mật nguyên phát là một rối loạn tự miễn dịch mãn tính gây viêm và sẹo đường mật bên trong gan. Đây là một căn bệnh tiến triển chậm làm cho gan ngày càng xấu đi.
2. Mục đích của xét nghiệm AMA-M2 là gì?
Xét nghiệm AMA hoặc AMA-M2 được chỉ định khi bác sĩ nghi ngờ ai đó bị rối loạn tự miễn dịch như PBC đang ảnh hưởng đến gan.
Một người có thể có các triệu chứng bao gồm: Ngứa, vàng da, mệt mỏi, gan to, đau ở bụng trên bên phải, sưng hoặc phù nề bàn tay và bàn chân, tích tụ chất lỏng trong bụng, khô miệng và mắt, giảm cân
Nhiều người trong số những người bị bệnh viêm đường mật nguyên phát sớm không có bất kỳ triệu chứng nào. Tình trạng này thường được xác định ban đầu vì một người có kết quả bất thường trên bảng gan (tăng men gan), đặc biệt là phosphatase kiềm (ALP).
Xét nghiệm AMA hoặc AMA-M2 có thể được chỉ định cùng với hoặc theo sau nhiều xét nghiệm khác nhau được sử dụng để giúp chẩn đoán hoặc loại trừ các nguyên nhân khác của bệnh gan hoặc chấn thương. Những nguyên nhân này có thể bao gồm nhiễm trùng, chẳng hạn như viêm gan siêu vi, ma túy, lạm dụng rượu, độc tố, tình trạng di truyền, điều kiện chuyển hóa và viêm gan tự miễn.
3. Bạn nên biết những gì khi thực hiện xét nghiệm kháng thể kháng ty thể?
Xét nghiệm AMA hay AMA-M2 có thể được thực hiện cùng với nhiều xét nghiệm khác được sử dụng để loại trừ những nguyên nhân khác của bệnh gan hay chấn thương. Những nguyên nhân này bao gồm nhiễm trùng, như là viêm gan do siêu vi, thuốc, lạm dụng rượu, độc chất, bệnh lý di truyền, bệnh lý chuyển hóa, và viêm gan tự miễn.
Bản thân các xét nghiệm AMA và AMA-2 không thể chẩn đoán xác định xơ gan ứ mật nguyên phát, những kết hợp với các xét nghiệm khác và các triệu chứng lâm sàng, có thể chẩn đoán xơ gan ứ mật nguyên phát.
Các xét nghiệm khác mà bác sĩ có thể chỉ định bao gồm:
- Kháng thể kháng nhân (ANA).
- Immunoglobulin M (IgM).
- Bilirubin.
- Albumin.
- Kháng thể kháng cơ trơn (SMA).
Bác sĩ cần làm thêm sinh thiết gan để xác nhận chẩn đoán xơ gan mật nguyên phát sau khi có kết quả xét nghiệm dương tính AMA, và kết quả định lượng các men gan cao.
Có khoảng 50% số ca xơ gan ứ mật nguyên phát sẽ được phát hiện trước khi bệnh nhân có triệu chứng rõ ràng.
4. Ý nghĩa của xét nghiệm AMA-M2
Hơn 90% bệnh nhân xơ gan mật nguyên phát (PBC) có thể phát hiện được kháng thể kháng kháng thể (AMA) bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, những phương pháp này cũng phát hiện AMA ở các đặc điểm khác nhau ở các bệnh khác. Các kháng nguyên ty thể được AMA công nhận trong huyết thanh của bệnh nhân đã được phân loại theo số lượng từ M1 đến M9, với phức hợp kháng nguyên M2 được AMA công nhận trong huyết thanh của bệnh nhân PBC. Kháng nguyên M2 bao gồm các protein enzyme của phức hợp 2-oxoacid dehydrogenase nằm trên màng trong ty thể. Bao gồm trong nhóm tự kháng nguyên này là phức hợp pyruvate dehydrogenase, và phức hợp 2-oxoglutarate dehydrogenase.
Bản thân AMA và AMA-M2 không phải là chẩn đoán bệnh viêm đường mật nguyên phát, nhưng kết hợp với các xét nghiệm cận lâm sàng khác và các triệu chứng lâm sàng, có thể chẩn đoán PBC. Sinh thiết gan có thể được thực hiện để tìm các dấu hiệu đặc trưng của PBC trong mô gan và để xác định chẩn đoán nhưng không phải lúc nào cũng cần thiết. Chụp hình ảnh gan cũng có thể được chỉ định để tìm các vật cản của ống mật. Khoảng 50% các trường hợp bệnh viêm đường mật nguyên phát sẽ được phát hiện trước khi một người có các triệu chứng đáng chú ý.
Kết quả bình thường: Không xuất hiện các kháng thể kháng ti thể ở hiệu giá >1:5 hoặc lượng kháng thể <0.1 đơn vị.
Kết quả bất thường: Tăng lượng kháng thể:
- Bệnh xơ gan mật nguyên phát (PBC).
- Viêm gan mãn tính thể hoạt động.
- Lupus ban đỏ hệ thống.
- Bệnh giang mai.
- Tắc nghẽn đường mật do thuốc.
- Viêm gan tự miễn.
- Tắc nghẽn ngoài gan.
- Viêm gan truyền nhiễm cấp tính
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.