Vào năm 1977, vắc-xin phế cầu khuẩn đầu tiên được cấp phép tại Hoa Kỳ. Để đạt được thành quả này, ngành y học thể giới đã trải qua quãng thời gian tìm tòi nghiên cứu đầy khó khăn.
1. Lịch sử phế cầu khuẩn và vắc xin phế cầu
Phế cầu khuẩn (Streptococcus pneumoniae) là vi khuẩn gây nhiễm trùng cấp tính. Vi khuẩn Streptococcus pneumoniae là những sinh vật kỵ khí hình gram. Chúng thường được quan sát theo cặp (Diplococci) nhưng cũng có thể xảy ra đơn lẻ hoặc trong chuỗi ngắn. Một số phế cầu được đóng gói, bề mặt của chúng bao gồm các polisaccarit phức tạp.
- Vi khuẩn phế cầu được Pasteur phân lập lần đầu tiên vào năm 1881 từ nước bọt của bệnh nhân mắc bệnh dại.
- Vào năm 1883, Friedlander và Talamon lần đầu tiên mô tả mối liên quan giữa phế cầu khuẩn và viêm phổi thùy. Viêm phổi do phế cầu khuẩn đã bị nhầm lẫn với các loại viêm phổi khác cho đến khi sự phát triển của nhuộm Gram vào năm 1884.
- Từ 1915 đến 1945, cấu trúc hóa học và tính kháng nguyên của Polysacarit dạng phế cầu, sự liên quan của nó với độc lực và vai trò của polisaccarit vi khuẩn trong bệnh ở người đã được giải thích. Vào năm 1940, hơn 80 loại huyết thanh của phế cầu khuẩn đã được mô tả.
- Sau đó, vào năm 1911 con người đã nỗ lực để phát triển vắc-xin phế cầu khuẩn hiệu quả. Tuy nhiên, với sự ra đời của penicillin vào những năm 1940, mối quan tâm trong việc tiêm vắc-xin phế cầu khuẩn đã giảm. Đến cuối những năm 1960, một lần nữa những nỗ lực đã được thực hiện để phát triển một loại vắc-xin phế cầu khuẩn đa trị được thực hiện, do nhiều người bệnh vẫn chết mặc dù đã điều trị bằng kháng sinh.
- Vào năm 1977, vắc-xin phế cầu khuẩn đầu tiên được cấp phép tại Hoa Kỳ. Vắc xin phế cầu khuẩn liên hợp đầu tiên được cấp phép vào năm 2000.
- Vắc xin phế cầu polysacarit dạng viên nang bao gồm các chế phẩm tinh khiết. Nó chứa kháng nguyên polysacarit dạng nang tinh khiết từ 14 loại vi khuẩn phế cầu khác nhau. Năm 1983, (PPSV23) đã được cấp phép và thay thế vắc xin 14-valent. PPSV23 chứa kháng nguyên polysaccharide từ 23 loại vi khuẩn phế cầu khuẩn gây ra 60-76% bệnh xâm lấn.
Vắc xin polysacarit hiện có ở Hoa Kỳ (Pneumovax 23, Merck) chứa 25 mcg mỗi kháng nguyên mỗi liều và chứa 0,25% phenol làm chất bảo quản. Vắc xin có sẵn ống tiêm một liều và trong lọ 5 liều. Vắc xin phế cầu khuẩn được tiêm bắp hoặc tiêm dưới da.
- Vắc-xin cộng hợp phế cầu khuẩn đầu tiên (PCV7) đã được cấp phép tại Hoa Kỳ vào năm 2000. Nó bao gồm polisaccarit dạng nang tinh khiết của bảy loại huyết thanh S. pneumoniae (4, 9V, 14, 19F, 23F, 18C và 6B) được kết hợp với một biến thể không độc tố bạch hầu được gọi là CRM197.
- Trong năm 2010, vắc xin cộng hợp phế cầu khuẩn 13-valent (PCV13) đã được cấp phép tại Hoa Kỳ. PCV13 chứa 7 kiểu huyết thanh của S pneumoniae là PCV7 cộng với các kiểu huyết thanh 1, 3, 5, 6A, 7F và 19A cũng được kết hợp với CRM197. Một liều PCV13 0,5 ml chứa khoảng 2,2 μg polysacarit từ mỗi 12 loại huyết thanh và khoảng 4,4 μg polysaccarit từ huyết thanh 6B; tổng nồng độ của CRM197 là khoảng 34 μg. Vắc-xin chứa 0,02% polysorbate 80 (P80), 0,125 mg nhôm dưới dạng tá dược nhôm phốt phát (AlPO4), 5mL dung dịch đệm succatine và không có chất bảo quản thimerosal. Ngoại trừ việc bổ sung sáu loại huyết thanh, P80 và đệm succatine, công thức của PCV13 giống như của PCV7.
2. Các triệu chứng của bệnh phế cầu khuẩn
Các triệu chứng lâm sàng chính của bệnh phế cầu khuẩn là:
- Viêm phổi.
- Nhiễm khuẩn huyết.
- Viêm màng não.
Viêm phổi do phế cầu khuẩn là biểu hiện lâm sàng phổ biến nhất của bệnh phế cầu khuẩn ở người lớn. Thời gian ủ bệnh viêm phổi do phế cầu khuẩn thường ngắn, khoảng 1 đến 3 ngày.
- Các triệu chứng ban đầu thường khởi phát đột ngột như: Sốt và ớn lạnh.
- Các triệu chứng phổ biến khác bao gồm: Đau ngực màng phổi, ho ra chất nhầy, đờm rỉ, khó thở, thở nhanh, thiếu oxy, nhịp tim nhanh và suy nhược. Buồn nôn, nôn và đau đầu thường ít xảy ra hơn.
- Khoảng 25-30% bệnh nhân bị viêm phổi do phế cầu khuẩn cũng bị nhiễm khuẩn cầu phổi. Tỷ lệ tử vong trong trường hợp là 5% 12% và có thể cao hơn nhiều ở những người cao tuổi. Các biến chứng khác của viêm phổi do phế cầu khuẩn bao gồm: Viêm mủ màng phổi, viêm màng ngoài tim và tắc nghẽn nội mô và hình thành áp xe phổi.
- Tỷ lệ tử vong của viêm màng não do phế cầu khuẩn là khoảng 8% ở trẻ em và 22% ở người lớn. Di chứng thần kinh diễn ra phổ biến ở những người sống sót.
3. Vắc xin phế cầu khuẩn cho người lớn
Người lớn rất dễ mắc bệnh viêm phế cầu khuẩn. Bệnh có thể dẫn đến các khuyết tật như điếc, tổn thương não hoặc mất cánh tay hoặc chân... hoặc các nhiễm trùng như: viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết và viêm màng não. Do vậy, tiêm vắc xin phế cầu khuẩn là cách tốt để phòng ngừa phế cầu khuẩn.
Hiện nay, có hai loại vắc-xin giúp ngăn ngừa bệnh phế cầu khuẩn là:
- Vắc xin cộng hợp phế cầu khuẩn (PCV13)
- Vắc xin cộng hợp phế cầu khuẩn (PPSV23).
3.1 Vắc xin cộng hợp phế cầu khuẩn (PCV13)
Những đối tượng được chỉ định dùng PCV13 gồm: Tất cả người lớn từ 65 tuổi trở lên và người lớn từ 19 tuổi trở lên với một số điều kiện sức khỏe.
Tuy nhiên, PCV13 không được dùng trong các trường hợp sau:
- Những ai đã từng có phản ứng dị ứng nghiêm trọng với PCV13.
- Người đó dùng một loại vắc-xin phế cầu khuẩn trước đó được gọi là PCV7 (hoặc Prevnar);
- Bất kỳ loại vắc-xin nào chứa độc tố bạch hầu (ví dụ DTaP); Những người bị dị ứng nặng với bất kỳ thành phần nào của PCV13 đều không nên chủng ngừa.
3.2 Vắc xin cộng hợp phế cầu khuẩn (PPSV23)
PPSV23 được chỉ định với: Tất cả người lớn từ 65 tuổi trở lên và người lớn từ 19 đến 64 tuổi có tình trạng sức khỏe nhất định.
PPSV23 không được dùng đối với những trường hợp: Người đã từng có một phản ứng nghiêm trọng với mũi PPSV23 trước đó hoặc bị dị ứng nặng với bất kỳ thành phần nào của vắc-xin.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.