Không được lắc - Con bạn có thể rất nguy hiểm!

Bài viết bởi Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Công Nghĩa - Trưởng khoa Sản - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.

Hội chứng trẻ bị lắc (Shaken Baby Syndrome - SBS) hay đôi khi được gọi là chấn thương đầu kiểu ngược đãi (Abusive Head Trauma) được mô tả lần đầu tiên vào những năm 1970, nhưng được sự chú ý và nghiên cứu đặc biệt vào khoảng 10 năm gần đây

1. Hội chứng trẻ bị lắc là gì và tổn thương như thế nào?

Hội chứng này là dạng nặng của chấn thương đầu và não gây ra bởi rung lắc mạnh trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ. Hội chứng này thường xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi tuy nhiên có thể tới 5 tuổi, và gặp nhiều nhất ở trẻ dưới 9 tháng. Tại Mỹ, ước tính khoảng 1200 đến 1400 trẻ bị chấn thương hoặc chết do lý do rung lắc mỗi năm, theo con số từ Trung tâm quốc gia kiểm soát hội chứng trẻ bị lắc. Tuy nhiên, con số này có thể cao hơn nhiều bởi nhiều trường hợp không phát hiện được.

Động tác bế và rung lắc của người lớn đối với trẻ ở các quốc gia có thể khác nhau và tùy theo tập quán sinh hoạt. Sự nguy hiểm nhất đề cập trong bài này là những rung lắc khi bế xốc trẻ trong tư thế đứng và không giữ cố định cổ để cho cổ di chuyển theo hướng trước sau. Tuy nhiên nguy hiểm vẫn xảy ra khi bế trẻ ở mọi tư thế mà rung lắc mạnh với cường độ cao hoặc dừng hay va chạm đột ngột. Các nghiên cứu cho thấy những tổn thương có thể xảy ra chỉ trong với 5 giây rung lắc. Rung lắc mạnh có thể gây ra những tổn thương não vĩnh viễn. Trường hợp rất nặng có thể dẫn tới chết.

Trẻ sơ sinh có kích thước đầu lớn và nặng khoảng 1 phần tư so với toàn cơ thể. Trong đầu, có những khoảng trống giữa não và xương sọ cho phép não tiếp tục lớn và phát triển. Não của trẻ thì mềm với màng não mỏng. Các cơ và dây chằng vùng cổ thì yếu và chưa phát triển cũng chưa thể chịu đựng được sức nặng của đầu, sự lỏng lẻo này được ví như đầu chiếc roi (vì thế hội chứng này có tên lúc đầu là whiplash shaken baby). Khi bị rung lắc, xương sọ mềm và dẻo của trẻ không chịu được những lực này, sẽ chuyển lực tới não, khi não không có sự di chuyển đồng bộ và gây ra sự va đập trở lại tới xương sọ, làm giập não, tăng áp lực, phù và chảy máu trong não. Các tĩnh mạch lớn dọc theo phía ngoài não cũng mỏng manh và dễ rách, gây chảy máu, máu tụ dưới màng cứng, ngoài màng cứng, dưới màng nhện, tăng áp lực nội sọ. Những tổn thương này có thể là vĩnh viễn. Tuy nhiên những tổn thương này không thể thấy được từ bên ngoài bằng mắt thường. Nhiều trường hợp tổn thương trong não nhẹ rất khó phát hiện. Ngoài ra, tổn thương khác rất thường gặp ở mắt, do chảy máu võng mạc, có thể gây nên giảm thị lực hoặc mù. Các chấn thương khác có thể gặp ở cổ hay cột sống, hay xương sườn.


Hình 1. Tờ rơi để giáo dục cho hội chứng trẻ bị lắc trên trang web của một hội bảo trợ trẻ em (Children without a voice – USA)
Hình 1. Tờ rơi để giáo dục cho hội chứng trẻ bị lắc trên trang web của một hội bảo trợ trẻ em (Children without a voice – USA)

Những tổn thương lâu dài bao gồm chậm phát triển trí tuệ, thị lực kém, rối loạn hành vi nói và nghe, động kinh, tổn thương kỹ năng định hướng, và nhận thức, và cũng có thể tử vong. Nhiều tổn thương lâu dài chỉ phát hiện được khi trẻ đã lớn, trên 6 tuổi. Những điều trị tổn thương này đòi hỏi chi phí tốn kém, với kỹ năng chuyên sâu, và nỗ lực lâu dài.

2. Nguyên nhân và triệu chứng

Các nguyên nhân lại rất thông thường và không bởi tai nạn. Hầu hết các trường hợp gây ra khi đứa trẻ khóc liên tục không ngừng và không dỗ được khiến cho cha mẹ hoặc người chăm sóc nỗ lực làm đứa trẻ ngừng khóc hoặc những người này trong tình trạng bực bội, mất kiên nhẫn và kiểm soát. Những nỗ lực này được thể hiện bằng cách rung lắc trẻ với cường độ cao hoặc có các hành vi mạnh hay có tính bạo lực hơn. Hiện tượng này rất phổ biến một cách không cố ý và không hề chủ tâm gây nguy hiểm cho trẻ.

Triệu chứng: Cần lưu ý rằng rất nhiều trẻ không có triệu chứng rõ rệt bên ngoài. Các dấu hiệu rõ rệt hơn bao gồm:

  • Trẻ bị kích thích mạnh, thay đổi hành vi thông thường, không tiếp xúc
  • Đờ đẫn, lơ mơ, hoặc ngủ mê mệt, trương lực cơ giảm (cơ nhẽo)
  • Da xanh tái, nhìn thấy rõ nhất vùng trán
  • Ăn, bú khó, khó nuốt hoặc nôn không có lý do rõ ràng
  • Khó thở, ngừng thở hoặc co giật
  • Những dấu hiệu cho thấy chấn thương cổ, sưng nề, cứng cổ, nghẹo về một bên, khó quay.

Hình 2. Hình ảnh của một trẻ bị lắc: mắt đờ đẫn, da xanh tái, nhất là vùng trán. Ảnh từ trang web của Trung tâm quốc gia kiểm soát hội chứng trẻ bị lắc – Mỹ.
Hình 2. Hình ảnh của một trẻ bị lắc: mắt đờ đẫn, da xanh tái, nhất là vùng trán. Ảnh từ trang web của Trung tâm quốc gia kiểm soát hội chứng trẻ bị lắc – Mỹ.

3. Chẩn đoán, sơ cứu và điều trị ban đầu

Chẩn đoán: Thường không nhìn thấy các triệu chứng của tổn thương từ bên ngoài. Tuy nhiên bác sĩ nhãn khoa có thể phát hiện các chảy máu võng mạc mắt khi soi đáy mắt. Khi nghi ngờ, các bác sĩ nhi khoa có thể tiến hành chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ để tìm thương tổn.

Sơ cứu ban đầu:

  • Hãy gọi cấp cứu, đừng cố vận chuyển trẻ tới bệnh viện trên các phương tiện thông thường.
  • Đừng bế xốc trẻ lên hay cố gắng lắc thêm làm cho trẻ tỉnh lại
  • Không cho trẻ ăn lúc này
  • Nếu đứa trẻ ngừng thở trước khi có cấp cứu hỗ trợ, cần phải hô hấp nhân tạo để trợ giúp
  • Nếu trẻ có nôn và không có nghi ngờ chấn thương cổ, có thể xoay đầu trẻ nhẹ nhàng về 1 phía để tránh sặc và ngừng thở. Nếu có nghi ngờ chấn thương cổ, tránh xoay trở trẻ và bảo vệ cẩn thận vùng cổ

Điều trị: Tại bệnh viện, các bác sĩ sẽ phải xem xét các thương tổn và quyết định một số điều trị như phẫu thuật cầm máu, dẫn lưu trong não thất, thuốc chống giật, v..v..

4. Các nguyên tắc phòng ngừa

Không bao giờ lắc trẻ, kể cả khi vui đùa hay giận dữ. Khi di chuyển trẻ, hãy giữ cổ ở tư thế tương đối cố định. Không ôm giữ trẻ khi cãi cọ.

Một đứa trẻ khóc trong 2-3 giờ vẫn có thể là bình thường. Bạn phải tìm hiểu nhiều nguyên nhân tại sao đứa trẻ khóc quá nhiều. Bạn nên có 1 danh sách các việc cần làm khi đứa trẻ khóc, ví dụ như sau: Trước hết, bạn hãy kiểm tra tã hay bỉm để bảo đảm đã được thay sạch. Bạn có thể nới rộng quần áo nếu trẻ mặc quá chật. Bạn kiểm tra xem trẻ có đói hay không và cho trẻ ăn. Kiểm tra xem trẻ có quá nóng hoặc quá lạnh. Hãy thử sử dụng đầu vú giả. Hãy ôm ấp xoa vuốt nhẹ nhàng trên mình của trẻ, tắt bớt đèn và bật nhạc nhẹ nhàng. Hãy xem các dấu hiệu bất thường khác về cách đứa trẻ thở, nhiệt độ cơ thể. Nếu không có bất kỳ điều gì đặc biệt, bạn có thể an tâm rằng đôi khi đứa trẻ khóc không có nguyên nhân, và khóc cũng không gây nguy hiểm gì cho trẻ. Khi bạn cảm thấy hết cách và rất khó chịu, hãy để đứa trẻ một mình an toàn trong cũi, giữ bình tĩnh, có thể ra ngoài một chút và quay lại kiểm tra mỗi 5-10 phút hoặc yêu cầu người khác trợ giúp.


Khi trẻ sơ sinh khóc trong nhiều giờ, cha mẹ cần chú ý hơn
Khi trẻ sơ sinh khóc trong nhiều giờ, cha mẹ cần chú ý hơn

Giáo dục kỹ lưỡng người giúp việc hay người chăm sóc trẻ, đừng bao giờ giả định rằng họ hiểu hết và biết cách xử thế khi trẻ khóc không thể dỗ được. Hãy cho phép họ được thông báo với bạn khi trẻ khóc, cũng đừng bắt buộc họ phải luôn luôn làm mọi cách để đứa trẻ ngừng khóc. Hãy chia sẻ những điều này cả với những người khác trong gia đình hay thường xuyên chăm sóc trẻ. Những bậc ông bà của trẻ cũng không nên vì quá yêu trẻ mà rung lắc hay tạo áp lực cho cha mẹ của trẻ khi trẻ khóc nhiều.

Cho đến nay, vẫn còn nhiều tranh cãi về mức độ và tư thế như thế nào là nguy hiểm cho trẻ. Trước tiên phải nói rằng những đung đưa nhẹ nhàng không gây nguy cơ này. Nhìn chung, các chuyên gia cho rằng một số động tác như tung trẻ lên không, rung trên đầu gối, đeo hoặc mang khi chạy thể dục, lắc trong võng hay đu ở mức độ thông thường không gây ra hội chứng này.

5. Các nghiên cứu và những nguồn thông tin bổ ích

Tạp chí y học uy tín nổi tiếng BMJ (British Medical Journal) dành hẳn 1 số báo tháng 5 năm 2004 đăng tải những kết quả nghiên cứu, ý kiến, tranh luận và phân tích của những chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực này. Các nghiên cứu hiện vẫn đang được tiến hành nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ với kinh phí từ Viện sức khỏe Mỹ.

Tất cả các bệnh viện sản khoa, trung tâm sinh đẻ nước Mỹ đã có cung cấp băng hình, đào tạo cho cha mẹ về hội chứng này. Cả hai cha mẹ được yêu cầu bắt buộc xem băng hình trong gần 1 giờ và ký giấy cam kết là đã được huấn luyện. Luật pháp Mỹ cũng quy định buộc tội ngược đãi và hình phạt tù với các cha mẹ gây ra hội chứng này cho trẻ mặc dầu không cố ý.


Rung lắc trẻ là một thói quen không tốt, có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ
Rung lắc trẻ là một thói quen không tốt, có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ

Bạn có thể tìm thấy rất nhiều các thông tin bổ ích khác từ các trang web chính thức của Viện sức khỏe Mỹ hay Trung tâm quốc gia trẻ có hội chứng bị lắc của Mỹ. Trung tâm này có chức năng trao đổi thông tin, đào tạo, giáo dục, và tiến hành nghiên cứu về hội chứng này trên toàn nước Mỹ. Website của họ là: http://www.dontshake.org/index.php

Bạn cũng có thể xem đoạn phim video rất bổ ích từ tổ chức Quỹ Nhi đồng tin cậy (Children Trust Fund) tại Missouri trên trang web của họ: www.ctf4kids.org. Hoặc bạn cũng có thể tìm thấy đoạn phim này từ YouTube: http://www.youtube.com/watch?v=w6yfvx0ik1M&feature=related

Thông điệp cuối cùng:

Không được, không bao giờ được lắc trẻ nhỏ.

Hãy để trẻ luôn luôn bình an trong gia đình và vòng tay bạn

Chia sẻ
Câu chuyện khách hàng Thông tin sức khỏe Sống khỏe