Sốt rét ác tính là một thể sốt rét rất nguy kịch do bị nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum, dẫn đến rối loạn huyết động, tắc nghẽn vi tuần hoàn, giảm tưới máu và thiếu oxy lên não, gây nguy cơ tử vong rất cao nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
1. Sốt rét ác tính là gì?
Sốt rét ác tính là một thể sốt rét nguy kịch. Tổn thương cơ bản của căn bệnh này là tình trạng tắc nghẽn tại các mao mạch nhỏ, gây ra rối loạn vi tuần hoàn, giảm tưới máu, thiếu oxy tại các tổ chức, tổn thương các phủ tạng, nhất là ở não. Hầu hết các trường hợp sốt rét ác tính là thể não (chiếm 85%).
Sốt rét ác tính thể não có khả năng gây hôn mê. Theo phân loại, có trường hợp sốt rét ác tính thể não đơn thuần và sốt rét ác tính thể não có kèm theo tổn thương ở một hoặc nhiều phủ tạng khác như thận, phổi, gan, tim, hệ tiêu hóa... Sốt rét ác tính thể não đơn thuần nếu không được phát hiện sớm, điều trị kịp thời có thể dẫn đến biến chứng ở các phủ tạng khác, tỷ lệ tử vong rất cao.
2. Thời gian ủ bệnh sốt rét
Thời gian ủ bệnh sốt rét kể từ thời điểm bị muỗi nhiễm ký sinh trùng đốt đến khi bắt đầu xuất hiện những biểu hiện lâm sàng đầu tiên tùy thuộc loại ký sinh trùng:
- Nhiễm P.falciparum, thời gian ủ bệnh từ 9 - 14 ngày, trung bình 12 ngày;
- Nhiễm P.vivax, ủ bệnh từ 12 - 17 ngày, trung bình 14 ngày;
- Nhiễm P.malariae thì phải sau 20 ngày đến nhiều tháng thì mới khởi phát bệnh;
- Nhiễm P.ovale, ủ bệnh kéo dài từ 11 ngày, có khi đến 10 tháng.
Đối với nhiễm sốt rét do truyền máu thì thời gian ủ bệnh phụ thuộc vào số lượng ký sinh trùng trong máu truyền cho bệnh nhân, nhưng thường với trường hợp này thời gian ủ bệnh khá ngắn, chỉ khoảng vài ba ngày.
Sốt rét ác tính thường do ký sinh trùng P. falciparum gây ra nên còn được xem như biến chứng do nhiễm P. falciparum.
3. Các tổn thương gây ra do sốt rét ác tính
Ngoài những biểu hiện điển hình của sốt rét như lên cơn sốt, rét, kèm gan, lách to hoặc thiếu máu, còn có những thể nặng có thể gây tử vong, bao gồm sốt rét thể não, sốt rét tiểu huyết cầu tố, suy thận, suy gan, trụy tim mạch:
- Thể não:
Đây là biến chứng thường gặp nhất của sốt rét ác tính. Dấu hiệu tiền ác tính nổi bật là tình trạng rối loạn ý thức (li bì, vật vã, cuồng sảng, mất nhận thức, nói lảm nhảm), sốt cao liên tục, mất ngủ, đau đầu dữ dội, nôn hoặc tiêu chảy nhiều, thể trạng suy kiệt. Bệnh nhân có biểu hiện của hội chứng tâm thần như hôn mê đột ngột hoặc từ từ, sâu dần, rối loạn cơ vòng, giãn đồng tử, co giật tương tự như động kinh.
Các dấu hiệu khác bao gồm rối loạn hô hấp hoặc suy hô hấp do phù não, ứ đọng đờm dãi. Huyết áp tăng do phù não hoặc giảm do mất nước. Một số trường hợp sốt rét ác tính dẫn đến suy thận, tiểu ít hoặc vô niệu, urê huyết cao, tiểu huyết cầu tố do tan máu ồ ạt. Tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính thể não dao động từ 20 - 50%.
- Thể tiểu huyết cầu tố:
Là thể sốt rét diễn biến nặng do tan huyết ồ ạt, trụy tim mạch, suy thận. Bệnh nhân sốt thành từng cơn, dữ dội, nôn khan hoặc nôn ra dịch màu vàng, đau lưng, vàng da và niêm mạc do thiếu máu tán huyết. Nước tiểu có lẫn màu đỏ (tiểu ra huyết cầu tố), trở thành màu đỏ nâu, sau chuyển sang màu cà phê. Lượng nước tiểu sau giảm dần, thậm chí vô niệu. Người bệnh thiếu máu nghiêm trọng, thiếu oxy cấp tính. Kết quả xét nghiệm máu sốt rét thấy hồng cầu và huyết sắc tố giảm mạnh;
- Thể giá lạnh:
Bệnh nhân cảm thấy lạnh toàn thân, huyết áp tụt, da xanh tái, đổ nhiều mồ hôi, đau đầu.
- Thể phổi:
Khó thở, nhịp thở nhanh, da tím tái, có thể khạc ra nước bọt màu hồng. Đáy phổi có nhiều ran ẩm, ran ngáy.
- Thể gan mật:
BIểu hiện vàng da vàng mắt, buồn nôn và nôn. Phân và nước tiểu có màu vàng bất thường do có nhiều muối mật. Trường hợp nặng, bệnh nhân có thể hôn mê.
- Thể tiêu hóa:
Biểu hiện đau bụng, nôn, tiêu chảy cấp, giảm thân nhiệt.
Tỷ lệ sốt rét ác tính trên tổng số ca mắc sốt rét còn được gọi là tỷ lệ chuyển đổi từ sốt rét thể thông thường sang sốt rét ác tính. Tỷ lệ này tùy theo quần thể cộng đồng người dân mắc bệnh sốt rét đã hình thành khả năng miễn dịch đối với sốt rét hay chưa và khi khởi phát bệnh được xử trí can thiệp điều trị sớm hay muộn.
Miễn dịch chống sốt rét bao gồm 2 loại là miễn dịch bẩm sinh và đáp ứng miễn dịch thu được. Rối loạn đáp ứng miễn dịch trong sốt rét ác tính được cho là đáp ứng quá mức của hệ thống miễn dịch bẩm sinh với INF và của hệ thống đáp ứng miễn dịch thu nhận với TCD4, INF, IL2 (có thể hiểu đây là những thành phần chính thực hiện chức năng miễn dịch). Kết quả của rối loạn miễn dịch trong sốt rét làm hồng cầu nhiễm ký sinh trùng bị phá hủy, kết dính với nhau và với thành mạch, gây ra hiện tượng tắc nghẽn vi tuần hoàn.
4. Chẩn đoán sớm sốt rét ác tính
Để giảm tỷ lệ tử vong do sốt rét, hạn chế biến chứng của sốt rét ác tính thể não thì cần phải phát hiện, chẩn đoán bệnh và can thiệp điều trị sớm. Hiệu quả khi cấp cứu điều trị phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng điều trị và thời gian can thiệp sớm hay muộn. Mặt khác, tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính thể não hiện nay còn tùy theo từng khu vực và chất lượng hoạt động của mạng lưới y tế.
Trong mọi trường hợp, tỷ lệ tử vong thường tăng cao theo thời gian can thiệp. Trên thực tế ghi nhận, khi được can thiệp sớm trong những giờ đầu, nguy cơ tử vong khoảng dưới 5%. Khi can thiệp trong vòng 24 giờ, tỷ lệ này là khoảng 5-10%, khi can thiệp từ ngày thứ 2 là khoảng 10-20% và khi can thiệp từ ngày thứ 3 vào lúc đã có biến chứng thì khả năng sống còn khoảng 70-80%. Nếu phát hiện sớm sốt rét ác tính thể não ngay từ lúc có nguy cơ sốt rét ác tính hay giai đoạn “tiền ác tính”, khả năng sẽ ngăn ngừa được bệnh nhân chuyển vào giai đoạn ác tính và giảm được tỷ lệ chuyển đổi từ sốt rét thường sang sốt rét ác tính.
Sốt rét ác tính thể não là tình trạng rất nguy kịch và nghiêm trọng, thường chiếm tỷ lệ cao trong các ca sốt rét ác tính, đe dọa tính mạng bệnh nhân. Vì vậy, khi nhận thấy người bệnh bị sốt rét ác tính thể não, cần đưa đến cơ sở y tế để tiên lượng sớm, cấp cứu điều trị kịp thời, chính xác; đồng thời có thể chỉ định phương án chuyển bệnh nhân lên tuyến trên phù hợp nếu cần thiết.
Khi thấy các dấu hiệu của bệnh sốt rét, đặc biệt là sốt rét ác tính, người bệnh có thể đến Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec để được thăm khám và điều trị. Tại đây có đội ngũ bác sĩ chuyên môn Truyền nhiễm được đào tạo bài bản, giàu kinh nghiệm, hệ thống trang thiết bị y tế đầy đủ, hiện đại cùng chất lượng dịch vụ chuyên nghiệp cho hiệu quả chẩn đoán và điều trị cao. Bệnh viện tiếp nhận khám, chẩn đoán, điều trị, hợp tác chống dịch bệnh và chăm sóc bệnh nhân bị bệnh do vi khuẩn, ký sinh trùng, các bệnh nhiễm trùng chưa xác định rõ nguyên nhân gây bệnh. Đặc biệt, Khoa truyền nhiễm - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec còn bao gồm chức năng tổ chức tiêm phòng vắc xin theo chỉ đạo của Bộ Y Tế, thực hiện cả đối với trẻ em và người lớn, trong đó đặc biệt phục vụ những người trưởng thành, điển hình như tiêm vắc xin phòng ngừa virut HPV, viêm gan A, viêm gan B, Zona, Herpes, sốt rét, viêm phổi,...
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Nguồn tham khảo: Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế