Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Vũ Duy Dũng - Khoa Nội tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City
Levodopa là tiêu chuẩn vàng của liệu pháp thay thế dopamine trong bệnh Parkinson. Nó được chỉ định kèm với một chất ức chế dopa decarboxylase (carbidopa) để giảm sự phân hủy ngoại biên của nó và giảm buồn nôn. Levodopa đặc biệt hiệu quả trong điều trị không động và cứng, còn tác dụng biến động khi điều trị run. Nghiên cứu lâm sàng gợi ý rằng điều trị levodopa không làm nặng thêm tiến triển bệnh.
1. Carbidopa/levodopa
Carbidopa/levodopa có dạng giải phóng nhanh, giải phóng kéo dài, và dạng viên nén phân rã trong miệng. Một dạng mới hơn của carbidopa/levodopa giải phóng kéo dài (IPXo66) đã được thiết kế để hấp thu nhanh, dễ sử dụng, và thời gian tác dụng lâm sàng dài hơn. IPXo66 đã được chứng minh trên lâm sàng có khả năng cải thiện thời gian on mà không có loạn động khó chịu đồng thời giảm thời gian off trong bệnh Parkinson tiến triển nặng. Một dạng bột hít levodopa cũng đã được FDA cấp phép cho điều trị ngắt quãng các giai đoạn off ở bệnh nhân Parkinson đang uống carbidopa/levodopa.
Một dạng khác của levodopa là levodopa/carbidopa là dạng gel trong ruột, cung cấp thuốc liên tục bằng cách mở thông dạ dày nội soi qua da với một ống thông kéo dài đến hỗng tràng (PEG-J). Các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rằng levodopa/carbidopa dạng gel trong ruột làm giảm dao động levodopa trong huyết tương, giảm thời gian off và tăng thời gian on mà không có loạn động khó chịu so với thuốc uống ở bệnh nhân Parkinson tiến triển. Levodopa/carbidopa dạng gel trong ruột có thể được khuyến cáo cho bệnh nhân Parkinson có các dao động vận động và loạn động không thể điều trị tối ưu bằng thuốc uống. Bệnh nhân Parkinson tiến triển không phải là các ứng viên cho điều trị phẫu thuật cũng có thể thu được lợi ích từ levodopa/carbidopa dạng gel trong ruột. Các tác dụng phụ thứ phát do levodopa/carbidopa dạng gel trong ruột thường liên quan đến PEG-J. Có các báo cáo về bệnh đa dây thần kinh (một bệnh đa dây thần kinh cảm giác hoặc một bệnh thần kinh nặng hơn giống hội chứng Guillain-Barré) ở một số bệnh nhân được điều trị levodopa/carbidopa dạng gel trong ruột.
2. Các thuốc đồng vận dopamine
Các thuốc đồng vận dopamine kích thích trực tiếp các receptor dopamine, không thông qua các neuron dopaminergic thoái hóa của não. Các động vận dopamine không phải nấm cựa gà (non-ergot) được sử dụng dưới dạng cả đơn trị liệu và liệu pháp bổ sung trong điều trị bệnh Parkinson. Chúng có thời gian bán hủy dài hơn levodopa (trên 6 giờ), nhưng cũng có tỷ lệ cao hơn các tác dụng phụ loạn thần, bao gồm ảo giác và rối loạn kiểm soát ham muốn cũng như “các cơn ngủ” tiềm tàng (nghĩa là, các cơn ngủ khởi phát đột ngột). Các đồng vận dopamine bao gồm pramipexole, ropinirole (có các dạng giải phóng nhanh và giải phóng kéo dài), rotigotine (dạng dán trên da), và apomorphine tiêm dưới da sử dụng như một thuốc cứu nguy cho những giai đoạn off cấp tính.
3. Các chất ức chế COMT
Các chất ức chế COMT làm giảm phân hủy levodopa thành 3-O-methyldopa và tăng thời gian bán hủy trong huyết tương của levodopa và diện tích dưới đường cong của nó. Các chất ức chế COMT được sử dụng kết hợp với levodopa để cải thiện thời gian wearing-off (tàn phai tác dụng) cuối liều, mặc dù chúng có thể làm tăng loạn động. Các chất ức chế COMT có trên thị trường hiện nay bao gồm entacapone và tolcapone, một chất ức chế COMT mang một cảnh báo hộp đen cho độc tính gan tiềm tàng.
Các chất ức chế MAO-B ngăn giáng hóa levodopa trong não và hạn chế tái hấp thu thuốc. Chúng ban đầu được cho là cung cấp các thuộc tính chống oxy hóa ở bệnh nhân Parkinson. Selegiline là một chất ức chế MAO-B chọn lọc và không đảo ngược đã được cấp phép là thuốc bổ trợ cho levodopa ở bệnh nhân có các dao động vận động. Rasagiline, một chất ức chế MAO-B thế hệ thứ hai, không có chất chuyển hóa amphetamine của selegiline và có thể được sử dụng như đơn trị liệu và điều trị bổ trợ. Safinamide là một chất ức chế MAO-B hiệu lực khác, có thể đảo ngược mà đã được cấp phép gần đây cho điều trị bổ trợ ở bệnh nhân Parkinson có các dao động vận động.
Một chất đối vận receptor N-methyl-D-aspartate (NMDA), amantadine, lúc đầu được sử dụng như một thuốc kháng virus trong những năm 1960 và có các thuộc tính kháng loạn động. Một chế phẩm mới hơn của amantadine, ADS-5102, là một dạng giải phóng kéo dài của amantadine có thể được sử dụng để điều trị loạn động do levodopa ở bệnh nhân Parkinson.
Các thuốc kháng cholinergic như trihexyphenidyl và benztropine là các thuốc đầu tiên được sử dụng để điều trị bệnh Parkinson. Ngày nay chúng được sử dụng để điều trị run ở bệnh nhân trẻ mắc bệnh Parkinson vì các tác dụng phụ của chúng bao gồm lú lẫn, khô miệng, bí tiểu, và táo bón.
Nguồn tài liệu: Theresa A. Zesiewicz. Parkinson Disease. Continuum (Minneap Minn) 2019;25(4, Movement Disorders): 896-918.
XEM THÊM BỘ TÀI LIỆU VỀ BỆNH PARKINSON CỦA BÁC SĨ VŨ DUY DŨNG: