Sự thiếu hụt dinh dưỡng và năng lượng không chỉ dẫn đến nguy cơ suy dinh dưỡng cao, làm giảm việc hấp thu dưỡng chất, sức đề kháng mà còn dẫn đến những nguy cơ ung thư nguy hiểm.
1. Thiếu protein
Thí nghiệm trên động vật cho thấy hàm lượng protein cao trong thức ăn hoặc bổ sung các axit amin, có thể ức chế sự xuất hiện của các khối u trên động vật. Chính vì thế sự thiếu hụt protein dễ khiến bạn phải đối mặt với nguy cơ ung thư.
Theo nghiên cứu, trong chế độ ăn uống của bệnh nhân ung thư thực phản thường dễ bị thiếu hụt protein. Do đó, trong quá trình điều trị bệnh nhân này nên chú ý tới chế độ ăn uống giàu protein hơn, giúp tăng cường khả năng miễn dịch, cải thiện tình trạng dinh dưỡng và có lợi cho sự phục hồi của họ.
2. Không cung cấp đầy đủ lượng vitamin
Các thực hành lâm sàng cho thấy rằng vitamin A acid có thể hỗ trợ điều trị tốt ung thư biểu mô tế bào đáy. Uống vitamin A axit cũng có thể chữa khỏi bệnh núm vú, bàng quang.
Một người lớn khỏe mạnh, tiêu thụ khoảng 3500 đến 5000 đơn vị vitamin A hàng ngày. Theo khảo sát, vitamin C trong máu của bệnh nhân ung thư thực quản có tỷ lệ thấp, chỉ khoảng 1/9 1/8. Vitamin C có thể ức chế methylbenzylamine và nitrit natri trong cơ thể tổng hợp N-nitrosamine, giảm tỷ lệ mắc ung thư dạ dày. Ở nước ngoài liều lượng lớn vitamin C (mỗi ngày 30 đến 50 g) được sử dụng mỗi ngày để điều trị bệnh nhân ung thư, trong đó có 8% ~ 10% bệnh nhân ung thư hồi quy, sự sống còn cũng được mở rộng. Ngoài ra, theo quan sát, da, màng nhầy của khối u có thể liên quan chặt chẽ đến việc thiếu vitamin B2. Điều này đòi hỏi chúng ta nên ăn nhiều rau và trái cây tươi giàu vitamin C.
3. Thiếu nguyên tố vi lượng
Thiếu hụt Iốt, kẽm và đồng có thể gia tăng tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ và ung thư tuyến giáp. Chế độ ăn uống nghèo iodine cũng góp phần vào sự xuất hiện của ung thư liên quan đễn estrogen như vú, ung thư nội mạc tử cung và ung thư buồng trứng. Vì vậy để bổ sung i-ốt thì những thực phẩm phong phú về chất này như rong biển, hải sâm, rong biển, nghêu, mực, ... nên được tăng lên trong chế độ ăn uống.
Theo khảo sát, hàm lượng kẽm thấp cũng có liên quan đến ung thư thực quản. Thiếu hụt đồng thời cả đồng và kẽm cũng gây ra nguy cơ tương tự. Do đó, nên chú ý tới việc bổ sung hàm lượng kẽm (từ các thực phẩm ngũ cốc: đậu, cá, nghêu, sò...) và hàm lượng đồng (từ các thực phẩm đậu lăng, mầm củ cải, đậu nành, bắp cải...)
Thực tế đã chứng minh rằng selenium có tác dụng chống ung thư. Trong thử nghiệm nó giúp ngăn chặn aflatoxin B1, nguyên nhân chính gây ra gan ung thư. Kết quả cho thấy nhóm được bổ sung thì tỷ lệ ung thư gan là 23,5% không được bổ sung là 64,7%.
4. Thiếu cellulose
Khi đời sống nhân dân cải thiện, chế độ ăn uống cũng ngày một tốt hơn, tuy nhiên thực đơn giàu chế độ carbohydrates lại quá ít lượng chất xơ, xenluloza, cellulose sẽ thúc đẩy sự xuất hiện của ung thư đại trực tràng.
Tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng là do thời gian cư trú lâu dài của thức ăn trong ruột, là tác nhân gây kích thích nhất định (chất độc), ăn thức ăn có chứa cellulose sẽ rút ngắn thời gian thức ăn qua đường ruột, nhờ đó thúc đẩy bài tiết những gây ung thư.
Thói quen ăn uống không lành mạnh cũng dễ gây ung thư
Chế độ ăn uống có hàm lượng chất béo cao
Nghiên cứu y tế hiện đại đã chỉ ra rằng chế độ ăn uống quá nhiều chất béo, cholesterol cao có thể thúc đẩy sự xuất hiện của ung thư đại tràng và vú. Điều tra dịch tễ học đã chứng minh rằng ở các vùng có chế độ ăn uống giàu chất béo như Bắc Mỹ, Tây Âu thì tỷ lệ mắc ung thư ruột kết, tỷ lệ mắc ung thư ruột kết cao hơn đáng kể so với chế độ ăn ít chất béo ở châu Á và châu Phi.
Quá nhiều lượng calo
Tổng lượng nhiệt của cơ thể sẽ đòi hỏi quá trình trao đổi chất và tiêu thụ tương đương. Nhiệt cung cấp quá nhiều, sức nóng dư thừa sẽ tích lũy chất béo. Kết quả là ngày càng béo phì. Theo số liệu thống kê, thừa cân hơn so với cân nặng bình thường hoặc hơi nhẹ hơn cũng dễ bị ung thư, tỷ lệ tử vong cũng cao hơn. Nhiệt quá mức sẽ gây ra béo phì, phụ nữ dễ bị ung thư vú còn nam giới dễ bị ung thư đại trực tràng.