Rối loạn lo âu có nguy hiểm và đáng sợ không?

Thỉnh thoảng lo âu là một phần bình thường của cuộc sống. Tuy nhiên, nếu bị rối loạn lo âu thường xuyên, kéo dài, dữ dội và quá mức về các tình huống hàng ngày, ảnh hưởng đến cuộc sống, công việc của người bệnh thì lại là vấn đề đáng quan tâm. Do đó, rối loạn lo âu có nguy hiểm không còn tùy thuộc vào mức độ mà bệnh gây ra cho con người.

Thông thường, rối loạn lo âu biểu hiện các đợt lặp đi lặp lại của cảm giác lo lắng dữ dội và sợ hãi hoặc kinh hoàng tột độ lên đến đỉnh điểm trong vòng vài phút (cơn hoảng loạn-panic attacks). Những cảm giác lo lắng và hoảng sợ này cản trở các hoạt động hàng ngày, khó kiểm soát, không tương xứng với mức độ nguy hiểm thực tế và có thể tồn tại trong thời gian dài. Vì vậy, người bệnh có thể tránh đến những địa điểm hoặc các tình huống để ngăn những cảm giác này. Các triệu chứng có thể bắt đầu trong thời thơ ấu hoặc những năm thiếu niên và tiếp tục đến tuổi trưởng thành.

Rối loạn lo âu được phân loại thành rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD), rối loạn hoảng sợ, rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD), rối loạn lo âu xã hội,... Tuy nhiên, người bệnh cũng có thể mắc nhiều hơn một chứng rối loạn lo âu. Đôi khi, lo lắng là kết quả của một tình trạng bệnh lý cần điều trị.

Dù người bệnh mắc phải dạng rối loạn lo âu nào, việc điều trị cũng đều mang lại lợi ích.

Rối loạn lo âu nặng ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống con người
Rối loạn lo âu có nguy hiểm không được nhiều người quan tâm.

1. Rối loạn lo âu có nguy hiểm không?

Rối loạn lo âu có nguy hiểm không còn tùy thuộc vào mức độ cũng như tác động của nó đối với người bệnh. Những tác động của rối loạn lo âu bao gồm:

1.1. Tác động đến sức khỏe

Ai cũng đều trải qua những sự lo lắng, ví dụ như cảm thấy lo lắng trước khi phát biểu trong một cuộc phỏng vấn xin việc. Trong ngắn hạn, lo lắng làm tăng nhịp thở và nhịp tim, tập trung lưu lượng máu lên não. Phản ứng vật lý này là sự chuẩn bị của cơ thể để người bệnh đối mặt với một tình huống căng thẳng. Tuy nhiên, rối loạn lo âu nặng, kinh niên có thể cản trở chất lượng cuộc sống của người bệnh. Bởi cảm giác lo lắng quá dữ dội, người bệnh có thể bắt đầu cảm thấy váng đầu và buồn nôn. Trạng thái lo lắng quá mức hoặc dai dẳng có thể tác động tàn phá đến sức khỏe thể chất và tinh thần của người bệnh. Không chỉ được công nhận nhiều nhất về những thay đổi hành vi, rối loạn lo âu cũng có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe.

Rối loạn lo âu có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào của cuộc đời, nhưng chúng thường bắt đầu ở tuổi trung niên. Theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Hoa Kỳ (NIMH), phụ nữ có nhiều khả năng bị rối loạn lo âu hơn nam giới. Trải nghiệm cuộc sống căng thẳng cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng rối loạn lo âu. Các triệu chứng có thể bắt đầu ngay lập tức hoặc nhiều năm sau đó. Có một tình trạng sức khỏe nghiêm trọng hoặc sử dụng chất kích thích cũng có thể dẫn đến rối loạn lo âu.

Dưới đây là một số loại rối loạn lo âu thường gặp:

  • Rối loạn lo âu lan tỏa: Rối loạn lo âu lan tỏa là sự lo lắng quá mức không có lý do hợp lý, được chẩn đoán khi người bệnh lo lắng tột độ về nhiều thứ kéo dài trong sáu tháng hoặc lâu hơn. Trường hợp nhẹ, ảnh hưởng của rối loạn lo âu lan tỏa không quá nghiêm trọng, tuy nhiên nếu nặng hơn có thể ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống.
  • Rối loạn lo âu xã hội: Rối loạn này liên quan đến nỗi sợ tê liệt về các tình huống xã hội và bị người khác đánh giá hoặc làm nhục. Nỗi ám ảnh xã hội nghiêm trọng này có thể khiến người ta cảm thấy xấu hổ và cô đơn.
  • Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD): Rối loạn căng thẳng sau chấn thương khởi phát sau khi chứng kiến hoặc trải qua một điều gì đó đau buồn. Các triệu chứng có thể bắt đầu ngay lập tức hoặc bị trì hoãn trong nhiều năm. Các nguyên nhân phổ biến bao gồm chiến tranh, thiên tai hoặc bị chấn thương. Các đợt rối loạn căng thẳng sau chấn thương có thể được kích hoạt mà không có cảnh báo trước.
  • Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD): Những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế có thể cảm thấy quá tải với mong muốn thực hiện các hành động một cách cưỡng chế lặp đi lặp lại hoặc trải qua những suy nghĩ xâm nhập và không mong muốn có thể gây đau khổ (ám ảnh). Những hành vi cưỡng chế phổ biến bao gồm thói quen rửa tay, đếm hoặc kiểm tra thứ gì đó. Những nỗi ám ảnh phổ biến bao gồm lo lắng về sự sạch sẽ, xung động, hung hăng và muốn mọi thứ phải cân xứng.
  • Chứng ám ảnh sợ hãi: Chúng bao gồm chứng sợ không gian chật hẹp, chứng sợ độ cao và nhiều chứng sợ khác. Những nỗi sợ này có thể khiến người bệnh hoảng loạn và luôn tìm cách tránh những tác nhân kích hoạt nỗi sợ.
  • Rối loạn hoảng sợ: Rối loạn hoảng sợ gây ra cơn hoảng loạn, là cảm giác lo âu, khủng hoảng hay sự sụp đổ sắp xảy ra một cách tự phát. Các triệu chứng thực thể bao gồm trống ngực, đau ngực và khó thở. Cơn hoảng sợ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Người bệnh cũng có thể mắc một loại rối loạn lo âu khác bên cạnh rối loạn hoảng sợ.
Rối loạn lo âu có nguy hiểm không còn tùy thuộc tác động của nó đối với người bệnh
Rối loạn lo âu có nguy hiểm không còn tùy thuộc tác động của nó đối với người bệnh

1.2. Tác động của rối loạn lo âu lên cơ thể

  • Hệ thần kinh trung ương: Các cơn lo lắng và hoảng sợ kéo dài có thể khiến não tiết ra các hormone căng thẳng một cách thường xuyên. Điều này có thể làm tăng tần suất các triệu chứng như đau đầu, chóng mặt và trầm cảm.
  • Hệ tim mạch: Rối loạn lo âu có thể gây ra nhịp tim nhanh, đánh trống ngực và đau ngực. Người bệnh cũng có thể có nguy cơ mắc bệnh cao huyết áp và bệnh tim. Nếu người bệnh đã bị bệnh tim, rối loạn lo âu có thể làm tăng nguy cơ biến cố mạch vành.
  • Hệ bài tiết và tiêu hóa: Lo âu cũng ảnh hưởng đến hệ bài tiết và tiêu hóa của người bệnh. Người bệnh có thể bị đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy và các vấn đề tiêu hóa khác, bao gồm cả chán ăn. Có thể có mối liên hệ giữa rối loạn lo âu và sự phát triển của hội chứng ruột kích thích (IBS) sau khi bị nhiễm trùng ruột. Hội chứng này có thể gây nôn mửa, tiêu chảy hoặc táo bón.
  • Hệ miễn dịch: Sự lo lắng có thể kích hoạt phản ứng chiến - hay - chạy để đối phó với căng thẳng và giải phóng một lượng lớn các chất hóa học và hormone, như adrenaline. Trong ngắn hạn, điều này làm tăng nhịp đập và nhịp thở của người bệnh, vì vậy não của người bệnh có thể nhận được nhiều oxy hơn. Điều này chuẩn bị cho người bệnh phản ứng thích hợp với một tình huống căng thẳng. Hệ thống miễn dịch của người bệnh thậm chí có thể được tăng cường trong thời gian ngắn. Với căng thẳng không thường xuyên, cơ thể của người bệnh sẽ trở lại hoạt động bình thường khi căng thẳng qua đi.
  • Hệ hô hấp: Lo âu gây ra tình trạng thở nhanh và nông. Nếu bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), người bệnh có thể có nhiều nguy cơ phải nhập viện do các biến chứng liên quan đến lo âu. Lo âu cũng có thể làm cho các triệu chứng hen suyễn trở nên tồi tệ hơn.
  • Tác động khác: Nhức đầu, căng cơ, mất ngủ, phiền muộn, tách rời xã hội là những ảnh hưởng của rối loạn lo âu gây ra cho người bệnh.
Ảnh hưởng của rối loạn lo âu đối với cơ thể con người là rất lớn
Ảnh hưởng của rối loạn lo âu đối với cơ thể con người là rất lớn

2. Suy nghĩ tích cực để vượt qua rối loạn lo âu

Đã đến lúc ngừng lo lắng sợ hãi. Suy cho cùng, lo lắng hoạt động như một tín hiệu báo động hoặc cảnh báo những nguy hiểm đang rình rập phía trước để chúng ta có thể tự bảo vệ mình. Đó là một hệ thống thích ứng cực kỳ cao và các phản ứng cơ thể liên quan thực hiện một công việc tuyệt vời, giúp chúng ta quản lý các nguy hiểm khách quan.

Vấn đề là nhiều người đã sợ hãi chính phản ứng lo lắng. Khi thường xuyên có 'báo động giả' thì những tình huống không nguy hiểm về mặt khách quan lại khiến chúng ta cảm thấy lo lắng, sợ hãi và tránh né. Lo âu không thoải mái nhưng không nguy hiểm. Trên thực tế, mức độ kích thích lo lắng vừa phải có thể giúp chúng ta nghĩ về sự kích thích một cách lành mạnh (như một số lo lắng về virus corona có thể nhắc nhở chúng ta các biện pháp phòng ngừa cần thiết). Ngay cả mức độ lo lắng cao cũng không phải là bản thân chúng có hại (cơn hoảng loạn không gây ra cơn đau tim). Thay vào đó, trải nghiệm lo lắng và căng thẳng kéo dài theo thời gian có thể góp phần gây ra bệnh tim mạch vành và các kết quả sức khỏe tiêu cực khác. Một trong những yếu tố nguy cơ đáng kể để phát triển chứng lo âu mãn tính là sợ hãi trải nghiệm lo lắng, gọi là nhạy cảm với lo lắng và liên tục tránh các tình huống gây ra những cảm giác đó.

Ngược lại, khi chúng ta xem sự lo lắng là tín hiệu của một thách thức thay vì một mối đe dọa, thế giới của chúng ta sẽ trở nên rộng lớn hơn. Chúng ta thử những điều mới, chúng ta ngạc nhiên với những gì chúng ta có thể làm và chúng ta học được rằng thất bại thực sự không phải là ngày “tận thế”.

Tất nhiên, khi có nguy hiểm khách quan, thoát khỏi tình huống đó là hợp lý. Điều này có ý nghĩa gì đối với việc kiểm soát sự lo lắng của chúng ta về corona virus? Điều đó có nghĩa là chúng ta nên thực hiện rửa tay theo khuyến nghị, giữ khoảng cách, đeo khẩu trang ở nơi công cộng và các biện pháp phòng ngừa lành mạnh khác.

Có quá nhiều người để sự lo lắng đưa ra quyết định cho họ. Khoảng 1 trong 4 người Mỹ sẽ mắc chứng rối loạn lo âu trong đời khiến họ từ chối các cơ hội và làm suy giảm tiềm năng của bản thân. Do đó, chúng ta cần thay đổi và đón nhận sự lo lắng như một thách thức đang ở phía trước. Đã đến lúc chúng ta suy nghĩ rằng “lo lắng không thoải mái nhưng không nguy hiểm”. Lo lắng có thể được chấp nhận, vì vậy chúng ta không cần phải trốn tránh hoặc tránh những tình huống khiến chúng ta lo lắng khi không có nguy cơ khách quan nào xuất hiện.

Nếu có nghi ngờ bản thân hoặc người thân có dấu hiệu mắc chứng trầm cảm, rối loạn lo âu thì người bệnh cần đến sự giúp đỡ và tư vấn từ bác sĩ để được điều trị, tránh hậu quả xấu mà bệnh gây ra.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Nguồn tham khảo: healthline.com, mayoclinic.org, adaa.org

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

4.7K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan