Khi các mốc phát triển quan trọng xảy đến với trẻ

Khi nào bé bắt đầu biết đi, mọc răng và ăn thức ăn đặc? Khi nào con bạn không cần ngủ trưa, làm bạn đầu tiên và rụng chiếc răng đầu tiên? Các mốc thời gian này cung cấp cho bạn cái nhìn tổng quan về thời điểm phát triển thú vị ở trẻ.

1. Thời gian ngủ và thói quen ngủ trưa của trẻ

Con bạn cần ngủ bao nhiêu? Mỗi đứa trẻ đều khác nhau. Một số trẻ sơ sinh cần ngủ nhiều hơn hoặc ít hơn hai giờ so với những trẻ khác, và một số trẻ mới biết đi và trẻ sơ sinh lớn hơn cần nhiều hơn hoặc ít hơn một giờ so với các bạn cùng tuổi.

Mốc phát triển của trẻ cung cấp cho bạn một ý tưởng chung về lượng giấc ngủ mà trẻ em thường cần ở các độ tuổi khác nhau và cách thức ngủ và giấc ngủ ngắn thay đổi khi chúng lớn lên.

1.1. Đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ

Giấc ngủ của trẻ sơ sinh không có mô hình nào và trẻ có thể ngủ từ vài phút đến vài giờ mỗi lần. Một lý do khiến trẻ thức dậy thường xuyên là để làm đầy bụng nhỏ của mình.

Khi trẻ được 1 tháng thì thời gian ngủ của bé là khoảng 17 giờ. Bé bắt đầu nhận ra sự khác biệt giữa ngày và đêm. Trẻ có lẽ thường nhắm mắt vào ban đêm nhưng vẫn ngủ nhiều vào ban ngày. Khi số tháng tuổi của bé tăng lên thì thời gian ngủ của bé cũng giảm đi. Khi bé được 9 tháng khoảng thời gian ngủ của bé là 14 đến 15 giờ, với khoảng 11 giờ vào ban đêm. 70 đến 80% trẻ sơ sinh ở độ tuổi này hiện đang ngủ suốt đêm (thường được định nghĩa là 8 đến 12 giờ vào ban đêm mà không cần ăn). Em bé của bạn có thể ngủ hai giấc ngắn mỗi ngày, sáng và chiều.

Giấc ngủ của trẻ sơ sinh
Giấc ngủ của trẻ được 1 tháng khoảng 17 giờ

1.2. Trẻ mới biết đi

Khi trẻ được 12 tháng khoảng thời gian ngủ của trẻ là 14 giờ. Trẻ một tuổi thường ngủ khoảng 11 giờ vào ban đêm, cộng với hai giấc ngủ ngắn vào ban ngày (có thể ngắn hơn một chút).

Khi trẻ 18 tháng khoảng thời gian ngủ của trẻ là 13 đến 14 giờ. Giờ đây, giấc ngủ ngắn buổi sáng của con bạn có lẽ đã là lịch sử. Bé có thể sẽ tiếp tục giấc ngủ trưa đó trong vài năm nữa. Hầu hết trẻ em ở độ tuổi này vẫn ngủ khoảng 11 giờ vào ban đêm.

1.3. Trẻ mẫu giáo

Khi trẻ 2 tuổi khoảng thời gian ngủ của trẻ là 11 đến 14 giờ. Hầu hết trẻ 2 tuổi vẫn ngủ trưa vào buổi chiều và ngủ khoảng 10 đến 12 giờ vào ban đêm.

Trẻ được 3 tuổi thì thời gian này là 10 đến 13 giờ. Trẻ mẫu giáo của bạn có thể vẫn ngủ trưa, nhưng một số trẻ ở độ tuổi này hoàn toàn không ngủ trưa. Chúng thường bù đắp bằng cách ngủ nhiều hơn một chút vào ban đêm.

1.4. Đứa trẻ lớn

Khi trẻ được 4 và 5 tuổi thì khoảng thời gian này là 13 giờ. Một số đứa trẻ ở độ tuổi này ngủ hết vào ban đêm, trong khi những đứa trẻ khác vẫn ngủ trong một hoặc hai giờ vào buổi chiều. Một đứa trẻ đang học mẫu giáo hoặc có một ngày hoạt động bất thường có thể mệt mỏi và sẵn sàng đi ngủ sớm hơn bình thường.

Khi trẻ được 6 đến 8 tuổi 9 thì thời gian ngủ là 12 giờ, tất cả vào ban đêm.

2. Cột mốc trẻ mọc răng

Chảy dãi là một biểu hiện của trẻ chuẩn bị mọc răng
Chảy dãi là một biểu hiện của trẻ chuẩn bị mọc răng

Như bạn có thể thấy mọc răng ở trẻ thường là hai răng cửa ở phía dưới (răng cửa trung tâm dưới) mọc trước. Ngay cả trước khi em bé của bạn được sinh ra, các chồi răng đang phát triển dưới nướu của bé.

Hãy nhớ rằng đây là mốc thời gian chung. Chiếc răng đầu tiên của bé xuất hiện khi được 3 tháng hoặc sau sinh nhật đầu tiên là điều hoàn toàn bình thường. Cũng không sao nếu răng của bé mọc hoặc rụng theo thứ tự khác nhau.

2.1. Răng cửa trung tâm dưới: 6 đến 10 tháng

Quá trình mọc răng bắt đầu. Nướu của bé có thể bị sưng và đỏ ở những chỗ răng mọc qua. Hai răng giữa trên dưới (răng cửa trung tâm dưới) thường mọc trước, thường vào cùng một thời điểm.

2.2. Răng cửa trung tâm trên: 8 đến 12 tháng

Răng giữa trên (răng cửa trung tâm trên) mọc lên. Thực tế răng sữa, hoặc răng chính, có các cạnh lượn sóng mịn khi sử dụng.

2.3. Răng cửa bên trên: 9 đến 13 tháng

Những chiếc răng trên cùng ngay bên cạnh những chiếc răng giữa (răng cửa bên) xuất hiện, tạo thành một hàng trông giống như bốn chiếc răng cưa nhỏ.

2.4. Răng cửa bên dưới: 10 đến 16 tháng

Các răng cửa bên xuất hiện ở phía dưới. Răng sữa giữ không gian cho răng vĩnh viễn phát triển dưới nướu.

Trẻ mọc răng
Trẻ từ 10 đến 16 tháng mọc răng cửa bên dưới

2.5. Răng hàm trên đầu tiên: 13 đến 19 tháng

Những chiếc răng hàm đầu tiên của bé - những chiếc răng rộng hơn về phía sau của miệng - mọc ở phía trên. Chúng sẽ không có nhiều việc để làm cho đến khi những chiếc răng khác ở phía dưới hiển thị.

2.6. Răng hàm dưới đầu tiên: 14-18 tháng

Các răng hàm đồng hành ở phía dưới nổi lên. Đôi khi các răng hàm đầu tiên ở trên và dưới sẽ mọc ở một bên trước khi chúng mọc ở bên kia.

2.7. Răng nanh trên: 16 đến 22 tháng

Còn được gọi là răng nanh, răng nanh trên lấp đầy khoảng trống giữa răng cửa và răng hàm thứ nhất. Những chiếc răng này đôi khi được gọi là răng chó.

2.8. Răng hàm dưới thứ hai: 23-31 tháng

Các răng hàm thứ hai, hoặc răng rất sâu, mọc ở phía dưới.

2.9. Răng hàm trên thứ hai: 25-33 tháng

Các răng cuối cùng - các răng hàm phía sau trên cùng - hoạt động theo cách của chúng.

Đến 3 tuổi, hầu hết trẻ em đã có đầy đủ 20 chiếc răng sữa và có thể khiến bạn cười rạng rỡ.

Trẻ 3 tuổi hầu hết đã có đầy đủ 20 chiếc răng sữa
Trẻ 3 tuổi hầu hết đã có đầy đủ 20 chiếc răng sữa

2.10. Tăng trưởng xương hàm và xương mặt: Từ 4 đến 6 tuổi

Xương ở mặt và hàm của trẻ lớn lên và phát triển, tạo khoảng trống giữa các răng sữa để răng vĩnh viễn mọc vào.

2.11. Mất răng: Tuổi từ 6 đến 12

Trẻ bắt đầu rụng răng. Trong những năm này, răng của bé có cả răng sữa và răng vĩnh viễn khi một loại bắt đầu thay thế loại kia.

Răng của bé có thể rụng theo bất kỳ thứ tự nào, nhưng răng sữa thường bị rụng theo đúng thứ tự mà chúng đã mọc. Nếu răng sữa của bé mọc muộn hơn so với các bạn cùng lứa tuổi, trẻ cũng có thể bị rụng sau đó.

Những chiếc răng giữa thường mọc đầu tiên (lúc 6 đến 7 tuổi), sau đó là những chiếc ở hai bên (7 đến 8 tuổi). Răng hàm có thể bị mất bất cứ lúc nào sau đó nhưng có thể sẽ rụng trong khoảng từ 9 đến 12 năm. Những chiếc răng nanh dưới cùng có thể sẽ rụng trong khoảng từ 9 đến 12 năm, và những chiếc răng nanh trên cùng sẽ mọc ra từ 10 đến 12 năm.

2.12. Trọn bộ: Tuổi 13

Con bạn có thể sẽ có tất cả 28 chiếc răng vĩnh viễn trưởng thành vào khoảng 13 tuổi (Bốn chiếc răng khôn sẽ mọc khi trẻ 17 đến 21 tuổi.)

Nếu bạn có bất kỳ lo lắng nào về răng của trẻ, hãy nói chuyện với nha sĩ.

3. Các mốc thời gian cho trẻ ăn

Phòng ngừa và xử trí dị ứng thực phẩm ở trẻ em
Khi bé được 4 đến 6 tháng thì bắt đầu cho bé ăn bổ sung nhưng nên chú ý tránh nguy cơ dị ứng thực phẩm

3.1. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ

Ở giai đoạn phát triển của trẻ sơ sinh, bé chủ yếu là bú sữa mẹ hoặc sữa công thức. Cho đến khi bé được 4 đến 6 tháng thì bắt đầu cho bé ăn bổ sung. Bởi vì, lúc này mặc dù bé vẫn bú sữa nhưng nó đã không còn đủ để cung cấp chất dinh dưỡng cho trẻ. Ba mẹ nên chú ý khi cho trẻ ăn bổ sung để tránh nguy cơ dị ứng thực phẩm.

3.2. Trẻ lớn và trẻ đi học

Trẻ từ 18 đến 24 tháng có thể tự mình dùng thìa (mặc dù không phải lúc nào cũng tốt). Trẻ biết ngậm miệng, lắc đầu hoặc sử dụng các dấu hiệu khác để bạn biết anh ấy đã no.

Trẻ từ 24 đến 36 tháng có thể tự ăn và tiếp tục hoàn thiện các kỹ năng khác trong giờ ăn. Sẵn sàng ăn hầu hết mọi thứ và thích lựa chọn từ những thứ được cung cấp. Tuy nhiên, bé vẫn còn quá nhỏ để ăn những thức ăn có thể gây nguy cơ mắc nghẹn.

4. Các mốc thời gian trẻ tập đi

Một số trẻ biết đi sớm nhất là 9 tháng, một số khác muộn nhất là 17 tháng. Có rất nhiều độ tuổi bình thường để trẻ bắt đầu tập đi. Nếu bạn lo lắng về sự tiến bộ của con mình, hãy hỏi ý kiến ​​bác sĩ.

4.1. Trẻ nhỏ

Khi trẻ được 3 đến 4 tháng chúng có thể chống đẩy nhẹ nhàng. Điều đó có nghĩa là trẻ có thể nằm sấp và nâng đầu và ngực lên khỏi mặt đất, sử dụng cánh tay để hỗ trợ. Chống đẩy nhẹ nhàng giúp trẻ xây dựng cơ bắp trên cơ thể rất quan trọng cho việc đi bộ.

Trẻ tập ngồi
Trẻ 6 đến 8 tháng trẻ sẽ học cách ngồi

Khi trẻ 6 đến 8 tháng trẻ sẽ học cách ngồi. Ngồi mà không cần hỗ trợ đòi hỏi phải có sức mạnh cổ, kiểm soát đầu, cân bằng và phối hợp tất cả các kỹ năng quan trọng để đi bộ. Hầu hết trẻ sơ sinh cũng học bò trong độ tuổi từ 7 đến 12 tháng, mặc dù một số trẻ bỏ qua hoàn toàn và chuyển thẳng sang tập đi.

4.2. Trẻ mới biết đi

Trẻ từ 12 đến 15 tháng có thể đang bước đi, mặc dù còn lúng túng. Chẳng bao lâu nữa, con bạn sẽ học cách khom lưng và đứng lên trở lại. Sau thời gian này, với sự trợ giúp, bé có thể đi lên và xuống cầu thang. Bé thậm chí có thể đi lùi. Nhảy theo nhạc.

4.3. Trẻ lớn

Khi trẻ được 5 tuổi, lúc này bé đã thành thạo các kỹ năng trước đó và bây giờ có thể làm tất cả hoạt động như: đi bộ, chạy, nhảy lò cò, bỏ qua và nhảy.

Trẻ nhỏ hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, dễ mắc các bệnh hô hấp, truyền nhiễm. Khi trẻ có những dấu hiệu bất thường về sức khỏe, cha mẹ có thể đưa trẻ đến hệ thống Y tế Vinmec để được khám và điều trị kịp thời.

Để giúp trẻ đạt được những cột mốc phát triển quan trọng, cha mẹ nên bổ sung cho trẻ các sản phẩm hỗ trợ có chứa lysine, các vi khoáng chất và vitamin thiết yếu như kẽm, crom, selen, vitamin nhóm B giúp đáp ứng đầy đủ nhu cầu về dưỡng chất ở trẻ. Đồng thời các vitamin thiết yếu này còn hỗ trợ tiêu hóa, tăng cường khả năng hấp thu dưỡng chất, giúp cải thiện tình trạng biếng ăn, giúp trẻ ăn ngon miệng, phát triển toàn diện.

Nguồn tham khảo: babycenter.com

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

357 lượt đọc

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan