Tiên lượng khối u nội tiết biểu mô hỗn hợp (MANEC)

Bài được viết bởi Thạc sĩ - Bác sĩ Mai Viễn Phương - Trưởng Đơn nguyên Nội soi tiêu hóa - Khoa Khám bệnh và Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Thuật ngữ “u nội tiết biểu mô hỗn hợp” (MANEC) được Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra vào năm 2010, dùng để chỉ một loại ung thư có sự biệt hóa kép giữa ung thư tuyến và nội tiết thần kinh, mỗi thành phần đại diện cho ít nhất 30% khối u. Trong bài viết dưới đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về tiên lượng của loại u này.

Các từ viết tắt trong bài: MEEN: U nội tiết biểu mô hỗn hợp; MANEC: Ung thư biểu mô tuyến nội tiết thần kinh hỗn hợp; MANET: U tuyến nội tiết thần kinh hỗn hợp; NET1: Khối u thần kinh nội tiết cấp 1; NET2: Khối u thần kinh nội tiết cấp 2; NEC: Ung thư biểu mô nội tiết thần kinh; MiNEN: U thần kinh hỗn hợp không thần kinh nội tiết.

1. Bệnh nhân u thần kinh hỗn hợp không thần kinh nội tiết / U nội tiết biểu mô hỗn hợp có tiên lượng xấu hơn so với bệnh nhân NET1, NET2 đơn thuần biệt hóa tốt

Trong các nghiên cứu đã khảo sát, tiên lượng của MiNENs / MEEN so với các loại ung thư khác, người ta nhận thấy rõ rằng, bệnh nhân được chẩn đoán MiNENs / MEEN có tiên lượng xấu hơn so với bệnh nhân NET1, NET2 đơn thuần biệt hóa tốt. Tuy nhiên, vẫn còn tranh cãi về việc liệu MiNENs / MEEN có tiên lượng tốt hơn hay xấu hơn so với NEC thuần túy. Hành vi sinh học của MiNENs / MEENs chủ yếu được điều khiển bởi thành phần nội tiết, trong đó, hơn 90% trường hợp biệt hóa kém và một khi đã di căn, ung thư biểu mô nội tiết thần kinh cấp cao mang tiên lượng rất xấu và không có lựa chọn điều trị dứt điểm.

khối u đại trực tràng
Khối u đại trực tràng có khả năng di căn

2. Tiên lượng bệnh ung thư biểu mô tuyến nội tiết thần kinh hỗn hợp

So với tỷ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến, tỷ lệ sống sót của bệnh nhân MANEC về cơ bản là kém hơn đáng kể. Tuy nhiên, có thông tin cho rằng phiên bản MANEC của NEC đại trực tràng có vẻ kém tích cực hơn với tiên lượng NEC đại trực tràng thuần túy. Nhìn chung, tiên lượng của MANEC vẫn kém với thời gian sống thêm trung bình là 7 - 18 tháng so với chẩn đoán ban đầu, phần lớn bị ảnh hưởng bởi giai đoạn bệnh và loại khối u.

Tỷ lệ sống sót tốt hơn được ghi nhận ở những bệnh nhân bị bệnh vùng cục bộ so với những bệnh nhân bị di căn xa. Trong một nghiên cứu khác, bệnh nhân có MANEC đại trực tràng và NEC thuần túy đã cho thấy khả năng sống sót tương tự. Một nghiên cứu đa trung tâm của Ý trên 51 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh MANEC cấp cao của đường dạ dày tụy kết luận rằng, tiên lượng của những khối u này chủ yếu do thành phần NEC thúc đẩy bất kể phương pháp điều trị là gì.

Hầu hết các MANEC có thành phần NET đặc biệt ở ruột già được coi là bệnh tiến triển, với sự xâm lấn sâu vào thành, hạch bạch huyết và di căn xa. Tuy nhiên, sự công nhận gần đây về MANEC không ổn định với tiên lượng tốt hơn so với NEC đại trực tràng thuần túy đang nổi lên như một tập con bệnh học lâm sàng độc đáo của MANEC. Do đó, tiên lượng của những bệnh nhân có MANEC bao gồm thành phần NEC cần được xác định rõ hơn.

3. Các yếu tố góp phần vào tiên lượng chung

Có nhiều yếu tố góp phần vào tiên lượng chung, đứng đầu là kích thước khối u, mô học, mức độ biệt hóa, sau đó là mức độ bệnh. Thành phần nội tiết được biết đến với sự tiến triển nhanh chóng khi chẩn đoán ở giai đoạn nặng, dẫn đến tỷ lệ sống sót kém vì nó dường như là nguyên nhân dẫn đến diễn biến lâm sàng của bệnh. Hầu hết các nghiên cứu đều dẫn đến kết luận rằng, mức độ biệt hóa thành phần ảnh hưởng đến tiên lượng lớn hơn so với thể tích khối u.

Dần dần, sự hiểu biết về các đột biến phân tử có ý nghĩa tiên lượng đang xuất hiện đầy hứa hẹn về các liệu pháp điều trị nhắm mục tiêu. Trong bối cảnh này, ngoài các chất tương tự somatostatin, tùy thuộc vào tình trạng KRAS, một yếu tố dự báo phân tử, hiệu quả của thuốc kháng EGFR trong các khối u hỗn hợp không giống như các u tuyến đại trực tràng vẫn chưa được biết rõ. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm không mắc bệnh và thời gian sống thêm 5 năm tổng thể thấp hơn đáng kể trong các trường hợp MANEC so với những người được chẩn đoán mắc ung thư biểu mô tuyến (lần lượt là 60,5% so với 76,2% và 69% so với 82%).

Hình ảnh đại thể về khối u xơ vôi hóa
Kích thước khối u đại trực tràng góp phần vào tiên lượng chung

4. Tiên lượng ở bệnh giai đoạn IV

Các yếu tố hoặc thông số tiên lượng cụ thể không được báo cáo trong y văn liên quan đến khả năng sống sót của bệnh nhân MANEC. Tuy nhiên, các MANEC với sự xâm lấn mạch máu và biểu hiện CD117 ở các vị trí đại trực tràng được báo cáo là các yếu tố tiên lượng độc lập, tương quan với thời gian sống thêm ngắn hơn.

Ngược lại, loại tế bào lớn, sự tham gia của bạch huyết xung quanh khối u, CD117 (-), không có sự xâm lấn mạch máu và vi tế bào không ổn định do methyl hóa đã cho thấy sự cải thiện tiên lượng. Trong các trường hợp u thần kinh hỗn hợp không thần kinh nội tiết (MINENs) / U nội tiết biểu mô hỗn hợp (MEENs), không có bệnh nhân nào sống sót lâu dài ở bệnh giai đoạn IV, với tỷ lệ sống không tiến triển trung bình được báo cáo là 4,5 tháng, trong khi thời gian sống thêm trung bình là 9,5 tháng và không có bệnh nhân nào sống sót sau 17 tháng.

Thể tích cao hơn của thành phần nội tiết thần kinh cao cấp (> 50%) trong tổng thể tích của khối u được cho là một chỉ số tiên lượng xấu độc lập cho thấy tỷ lệ sống sót thấp hơn. Kết quả bất lợi liên quan đến việc thiếu nhuộm chromogranin và nhuộm mạnh somatostatin.

5. Yếu tố tiên lượng quan trọng nhất

Nhìn chung, yếu tố tiên lượng quan trọng nhất được báo cáo là chỉ số cấu hình Ki67 tổng thể trong cả hai thành phần. Tiên lượng của MINENs / MEENs cấp độ trung bình thường được xác định bởi thành phần nội tiết biểu mô không phải thần kinh. Ngược lại, nếu có thành phần nội tiết thần kinh tích cực hơn như ung thư biểu mô nội tiết kém biệt hóa, điều này sẽ tự động được mặc định là yếu tố tiên lượng chiếm ưu thế. Cần lưu ý rằng, cả hai thành phần đều có thể di căn theo kiểu khó đoán trước. Tuy nhiên, các khối u hỗn hợp MiNENs / MEENs cấp thấp bao gồm u tuyến với các khối u nội tiết thần kinh cấp thấp biệt hóa tốt có tiên lượng tương đối tốt và được coi là một bệnh tiến triển chậm.

Trên đây là một số thông tin về tiên lượng của khối u nội tiết biểu mô hỗn hợp của đại trực tràng. Hãy theo dõi trang web: Vinmec.com thường xuyên để cập nhật nhiều thông tin hữu ích khác.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Tài liệu tham khảo:
Kanthan R, Tharmaradinam S, Asif T, Ahmed S, Kanthan SC. Mixed epithelial endocrine neoplasms of the colon and rectum – An evolution over time: A systematic review. World J Gastroenterol 2020; 26(34): 5181-5206 [PMID: 32982118 DOI: 10.3748/wjg.v26.i34.5181]

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

220 lượt đọc

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan