Hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS): Các giai đoạn và điều trị

Hội chứng loạn sản tủy (còn gọi là loạn sản tủy) xảy ra khi các tế bào gốc trong máu của bạn không trở thành tế bào máu khỏe mạnh. Chứng loạn sản tủy có thể gây ra các tình trạng nghiêm trọng như thiếu máu, nhiễm trùng thường xuyên và chảy máu không ngừng. Điều trị MDS tập trung vào việc làm chậm tiến trình của hội chứng, điều trị các tình trạng liên quan và giảm bớt các triệu chứng. Bài viết này sẽ xem xét các vấn đề vào các giai đoạn và điều trị của hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS).

1. Hội chứng rối loạn sinh tủy (Bệnh MDS) là gì?

Hội chứng rối loạn sinh tủy (bệnh MDS) là những tình trạng có thể xảy ra khi các tế bào tạo máu trong tủy xương trở nên bất thường. Điều này dẫn đến số lượng thấp của một hoặc nhiều loại tế bào máu. Bệnh MDS còn được coi là một loại ung thư.

Tủy xương được tìm thấy ở giữa các xương nhất định. Nó được tạo thành từ các tế bào tạo máu, tế bào mỡ và các mô nâng đỡ. Một phần nhỏ tế bào tạo máu là tế bào gốc máu. Tế bào gốc là cần thiết để tạo ra các tế bào máu mới.

Trong bệnh MDS, một số tế bào trong tủy xương không bình thường (loạn sản) và có vấn đề với việc tạo ra các tế bào máu mới. Nhiều tế bào máu được tạo thành bởi các tế bào tủy xương này bị khiếm khuyết. Các tế bào bị lỗi thường chết sớm hơn các tế bào bình thường, và cơ thể cũng phá hủy một số tế bào máu bất thường, khiến người đó không có đủ tế bào máu bình thường. Các loại tế bào khác nhau có thể bị ảnh hưởng, mặc dù phát hiện phổ biến nhất ở MDS là thiếu hồng cầu (thiếu máu).

Có một số loại bệnh MDS khác nhau, dựa trên số lượng các loại tế bào máu bị ảnh hưởng và các yếu tố khác.

Ở khoảng 1 trong 3 bệnh nhân, MDS có thể tiến triển thành ung thư tế bào tủy xương đang phát triển nhanh chóng được gọi là bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML). Trong quá khứ, MDS đôi khi được gọi là tiền ung thư máu hoặc bệnh bạch cầu âm ỉ. Vì hầu hết bệnh nhân không mắc bệnh bạch cầu, bệnh MDS từng được xếp vào nhóm bệnh có khả năng ác tính thấp. Bây giờ các bác sĩ đã biết thêm về MDS, nó được coi là một dạng ung thư.

2. Triệu chứng hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS)

Thông thường, không có dấu hiệu của MDS nhưng sẽ có sự thay đổi trong các giá trị phòng thí nghiệm. Nếu một người có các dấu hiệu của MDS, điều đó có liên quan đến công thức máu thấp và có thể bao gồm:

  • Số lượng hồng cầu thấp có thể khiến một người mệt mỏi, xanh xao, đau ngực và cảm thấy chóng mặt.
  • Số lượng tiểu cầu thấp có thể dẫn đến chảy máu, chấm xuất huyết (chấm nhỏ màu đỏ hoặc tím dưới da) và bầm tím.
  • Số lượng bạch cầu thấp cũng có thể dẫn đến nhiễm trùng.

Theo thời gian, hội chứng rối loạn sinh tủy có thể gây ra:

  • Mệt mỏi
  • Hụt hơi
  • Xanh xao bất thường (xanh xao) và xảy ra do số lượng hồng cầu thấp (thiếu máu)
  • Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu bất thường và xảy ra do số lượng tiểu cầu trong máu thấp (giảm tiểu cầu)
  • Các đốm đỏ có kích thước chính xác ở ngay bên dưới da do chảy máu (chấm xuất huyết)
  • Nhiễm trùng thường xuyên và xảy ra do số lượng bạch cầu thấp (giảm bạch cầu)

3. Nguyên nhân gây Hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS)

Đối với một người khỏe mạnh thì tủy xương tạo ra các tế bào máu mới, chưa trưởng thành và trưởng thành theo thời gian. Hội chứng rối loạn sinh tủy sẽ xảy ra khi có thứ gì đó làm gián đoạn quá trình này khiến các tế bào máu không trưởng thành.

Thay vì phát triển bình thường thì các tế bào máu chết trong tủy xương hoặc ngay sau khi đi vào máu. Theo thời gian, cũng có nhiều tế bào chưa trưởng thành, khiếm khuyết hơn những tế bào khỏe mạnh, dẫn đến các vấn đề như mệt mỏi do quá ít tế bào hồng cầu khỏe mạnh (thiếu máu), nhiễm trùng là do quá ít tế bào bạch cầu khỏe mạnh (giảm bạch cầu) và chảy máu là do quá ít đông máu tiểu cầu (giảm tiểu cầu).

Hầu hết các hội chứng rối loạn sinh tủy thường sẽ không rõ nguyên nhân. Một số khác cũng là do tiếp xúc với các phương pháp điều trị ung thư, chẳng hạn như hóa trịxạ trị, hoặc với các hóa chất độc hại, chẳng hạn như benzen, thuốc nhóm ankyl, virus, một số bệnh di truyền và quá trình lão hóa của tuổi già.

4. Các loại và giai đoạn hội chứng rối loạn sinh tủy

4.1. Các loại hội chứng rối loạn sinh tủy

Tổ chức Y tế Thế giới được chia hội chứng rối loạn sinh tủy thành các loại phụ dựa trên loại tế bào máu - tế bào hồng cầu, tế bào trắng và tiểu cầu - có liên quan.

Các loại hội chứng rối loạn sinh tủy gồm có:

  • Các hội chứng rối loạn sinh tủy đối với loạn sản dòng đơn. Một loại tế bào máu - bạch cầu, hồng cầu hoặc tiểu cầu cũng có số lượng thấp và có vẻ bất thường dưới kính hiển vi.
  • Các hội chứng loạn sản tủy với loạn sản đa tuyến. Trong loại phụ này thì hai hoặc ba loại tế bào máu là bất thường.
  • Hội chứng myelodysplastic với nguyên bào bên vòng. Loại phụ này sẽ liên quan đến số lượng thấp của một hoặc nhiều loại tế bào máu. Một tính năng đặc trưng chính là các tế bào hồng cầu hiện có trong tủy xương có chứa các vòng sắt dư thừa.
  • Hội chứng rối loạn sinh tủy đối với bất thường nhiễm sắc thể del (5q) riêng biệt. Những người có kiểu phụ này sẽ có số lượng tế bào hồng cầu thấp và các tế bào có một đột biến cụ thể trong DNA của họ.
  • Hội chứng myelodysplastic đối với các vụ nổ dư thừa. Trong loại phụ này, bất kỳ loại tế bào nào trong số ba loại tế bào - hồng cầu, bạch cầu hoặc tiểu cầu - có thể thấp và có vẻ bất thường dưới kính hiển vi. Tế bào máu rất non nớt (vụ nổ) cũng được tìm thấy trong máu và tủy xương.
  • Các hội chứng rối loạn sinh tủy, không thể phân loại được. Trong loại phụ này, số lượng một hoặc nhiều loại tế bào máu trưởng thành bị giảm đi và các tế bào có thể trông bất thường dưới kính hiển vi. Đôi khi các tế bào máu có vẻ bình thường, nhưng phân tích có thể thấy rằng các tế bào có những thay đổi DNA có liên quan đến hội chứng rối loạn sinh tủy.

4.2. Các giai đoạn hội chứng rối loạn sinh tủy

Đối với phần lớn các ca bệnh, đánh giá giai đoạn hay xác định giai đoạn bệnh ung thư giúp quyết định lựa chọn điều trị. Do bệnh MDS là bệnh tủy xương, tiên lượng không dựa vào kích thước hay mức độ di căn xa như các bệnh ung thư khác.

Thay vào đó, MDS được dựa vào nhiều yếu tố khác nhau. Một hệ thống tính điểm, hệ thống International Prognostic Scoring System (IPSS-R) đã được điều chỉnh, dựa vào các yếu tố sau:

  • Tỉ lệ tế bào máu chưa trưởng thành (dạng rất sớm của tế bào máu) tìm thấy trong tủy xương
  • Loại và số lượng bất thường nhiễm sắc thể tìm thấy trong tế bào
  • Chỉ số hồng cầu trong máu
  • Chỉ số tiểu cầu trong máu
  • Chỉ số bạch cầu trung tính (một loại bạch cầu) trong máu

Mỗi một chỉ số ghi 1 điểm, tổng điểm thấp nhất tương ứng với tiên lượng tốt. Cộng các điểm đối với tất cả các yếu tố sẽ quyết định nhóm nguy cơ của bệnh nhân:

  • Nguy cơ rất thấp
  • Nguy cơ thấp
  • Nguy cơ trung bình
  • Nguy cơ cao
  • Nguy cơ rất cao

Một hệ thống tính điểm khác, hệ thống ghi điểm của tổ chức y tế thế giới (WHO) dựa vào 3 yếu tố sau:

  • Loại MDS dựa vào phân loại của WHO
  • Bất thường nhiễm sắc thể (phân nhóm thành tốt, trung bình hoặc kém)
  • Có cần truyền máu thường xuyên không
  • Với hệ thống IPSS-R, tổng điểm các yếu tố xác định nhóm nguy cơ cho bệnh nhân.

Ngoài việc giúp tiên đoán, tiên lượng bệnh cho bệnh nhân và quyết định lựa chọn điều trị, nhóm nguy cơ còn giúp dự đoán khả năng bệnh MDS chuyển sang bệnh bạch cầu cấp thể tủy AML.

5. Các yếu tố rủi ro

Các yếu tố có thể sẽ làm tăng nguy cơ mắc hội chứng rối loạn sinh tủy bao gồm:

  • Tuổi lớn hơn. Hầu hết những người mắc hội chứng rối loạn sinh tủy sẽ đều trên 60 tuổi.
  • Điều trị trước đó bằng hóa trị hoặc xạ trị. Hóa trị hoặc xạ trị, cả hai đều được sử dụng phổ biến để điều trị ung thư, có thể làm tăng nguy cơ mắc hội chứng rối loạn sinh tủy.
  • Tiếp xúc với một số hóa chất. Hóa chất, bao gồm benzen và có liên quan đến hội chứng myelodysplastic.

6. Các biến chứng của hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS)

Các biến chứng của hội chứng loạn sản tủy gồm có:

  • Thiếu máu. Số lượng tế bào hồng cầu giảm có thể gây thiếu máu, khiến bạn cảm thấy mệt mỏi.
  • Nhiễm trùng tái phát. Có quá ít tế bào bạch cầu sẽ làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng.
  • Chảy máu không ngừng. Thiếu tiểu cầu trong máu để cầm máu có thể gây ra chảy máu quá nhiều.
  • Tăng nguy cơ ung thư. Một số người mắc hội chứng rối loạn sinh tủy cuối cùng có thể phát triển thành ung thư tủy xương và tế bào máu (bệnh bạch cầu).

7. Phương pháp điều trị của hội chứng rối loạn sinh tủy

MDS là một bệnh mãn tính, có nghĩa là nó không bao giờ thực sự biến mất. Bởi vì nó là mãn tính, chăm sóc hỗ trợ là rất quan trọng. Sự chăm sóc này hạn chế các triệu chứng của MDS và giúp bạn giữ được chất lượng cuộc sống cao. Các mục tiêu của việc điều trị MDS là:

  • Quản lý các triệu chứng liên quan đến công thức máu thấp.
  • Giảm nguy cơ MDS chuyển thành bệnh bạch cầu cấp tính.

Các phương pháp điều trị có thể được sử dụng chính là:

Ghép tế bào gốc

Ghép tế bào gốc (còn gọi là ghép tủy) là phương pháp điều trị khả thi đối với bệnh nhân MDS và thường được chỉ định cho các bệnh nhân dưới 75 tuổi và có tình trạng sức khỏe chung ổn định. Bệnh nhân được ghép tế bào gốc sẽ phù hợp bởi người thân hiến tặng hoặc qua đăng ký với ngân hàng tế bào gốc. Trước khi ghép thì bác sỹ có thể chỉ định các phương pháp điều trị hỗ trợ khác.

Điều trị hỗ trợ

Điều trị hỗ trợ được chỉ định nhằm tránh các triệu chứng phát sinh do thiếu máu, bao gồm truyền máu, thuốc kích thích tạo máu, kháng sinh...

Đối với bệnh nhân không phù hợp ghép tế bào gốc thì bác sỹ có thể chỉ định các phương pháp sau đây:

Hóa trị

Những thuốc mới thường được chỉ định gồm

·5-azacitidine (Vidaza®)

·Decitabine (Dacogen®)

Liệu pháp miễn dịch

Những thuốc mới thường được chỉ định gồm

·Lenalidomide (Revlimid®)

Liệu pháp ức chế miễn dịch

Dùng thuốc để giảm mức độ hoạt động của bạch cầu, làm cơ thể ít phản ứng với các triệu chứng, chỉ có hiệu quả đối với dưới 50% bệnh nhân.

Phác đồ điều trị ung thư máu

Bệnh nhân MDS có nhiều nguyên bào có thể sẽ được điều trị bằng phác đồ bệnh ung thư máu để làm giảm lượng nguyên bào trong tủy xương chuẩn bị cho ghép tế bào gốc.

Truyền hồng cầu có thể được sử dụng để điều trị các triệu chứng thiếu máu (lượng hồng cầu thấp), chẳng hạn như mệt mỏi và khó thở. Truyền máu quá nhiều có thể khiến lượng lớn sắt tích tụ trong cơ thể, gây hại cho các cơ quan như gan, tụy, tim. Liệu pháp thải sắt được sử dụng để kết dính sắt để loại bỏ nó ra khỏi cơ thể qua nước tiểu. Nếu số lượng tiểu cầu của bạn thấp, bạn có thể được truyền tiểu cầu.

8. Một số phương pháp điều trị hội chứng rối loạn sinh tủy đã dùng

  • Pyridoxin

Thường dùng cho thể thiếu máu RARS.

Liều 150 - 200mg/ngày dùng trong 3 tháng.

Tỷ lệ đáp ứng 1-2%.

  • Hormon

Corticoid: thường không có hiệu quả.

Aldozen: kết quả hạn chế.

  • Hoá trị liệu tăng cường

Chỉ định cho nhóm RAEB, RAEB-t và CMML

Thường dùng cytosin - arabinosid và anthracycline.

Tỷ lệ đáp ứng tùy tác giả từ 15 - 51%, thời gian lui bệnh trung bình 6-8 tháng một số đạt 36 tháng.

Dưới 50 tuổi thường đáp ứng tốt hơn.

  • Ghép tủy đồng loài

Chỉ định hạn chế vì thường là bệnh nhân lớn tuổi và cần có người cho HLA tương đồng.

Chỉ định với bệnh nhân trẻ tuổi và có tiên lượng xấu. Kết quả ban đầu là đáng khích lệ vì có khả năng loại trừ clo không bình thường. Biến chứng của ghép đồng loài.

  • Tác nhân biệt hoá

Aracytine liều thấp: 5-10mg/m2, tiêm dưới da cứ 12 giờ/1 lần trong 2-3 tuần.

Acid retinoique: 20mg/ngày trong 3 tuần. Đáp ứng một phần trong thời gian ngắn ở 20-30% trường hợp.

1.2.3 dehydro VTM D3, interferon còn đang trong thử nghiệm.

  • Phối hợp các tác nhân biệt hoá.
  • Các yếu tố tăng trưởng

được đưa vào với hy vọng điều chỉnh sự giảm tế bào, kích thích lại những clon bị ức chế. Đó là GM-CSF, G-CSF, erythropoietin, IL3.

  • Thuốc hoá chất đường uống

6MP, hydrea, etoposid thường dùng trong thể CMML.

Chiến lược điều trị hội chứng rối loạn sinh tủy còn rất khó. Cần có sự cân nhắc kỹ trước khi quyết định một phương pháp điều trị. Tuổi cao, lâm sàng và xét nghiệm ổn định, tiến triển mạn tính chỉ cần theo dõi đơn thuần, điều trị triệu chứng khi cần thiết.

Tuổi trẻ, có nhiều yếu tố tiên lượng xấu, lâm sàng tiến triển, phải truyền máu nhiều lần, hay bị nhiễm khuẩn bắt buộc phải điều trị mạnh hơn.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Nguồn tham khảo: mayoclinic.org, cancer.org, oncolink.org

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

18.9K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan