Các kỹ thuật xạ trị ung thư tại bệnh viện Vinmec Central Park (TP HCM)

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa II Bùi Lê Phước Thu Thảo - Bác sĩ xạ trị - Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Xạ trị là một trong những phương pháp điều trị ung thư được ứng dụng phổ biến trong chuyên ngành y khoa. Có rất nhiều các phương pháp xạ trị khác nhau như xạ trị bằng máy gia tốc, xạ trị điều biến liều hay xạ trị áp sát...

1. Xạ trị chùm tia ngoài

1.1. Xạ trị bằng máy gia tốc

Xạ trị bằng máy gia tốc có thể hiểu là phương pháp xạ trị có sử dụng đến máy gia tốc, là thiết bị làm tăng vận tốc chuyển động của các điện tử mang điện (electron) hoặc không mang điện (tia X, photon...) từ đó làm tăng khả năng tiêu diệt tế bào ung thư và giảm bớt thời gian điều trị ung thư so với các thiết bị thông thường khác.

Kĩ thuật này được áp dụng cho nhiều loại ung thư với nhiều vị trí khác nhau. Có thể như là một phương pháp điều trị triệt để, hoặc xạ trị bổ túc sau một điều trị khác như phẫu thuât giúp giảm tỉ lệ tái phát, tăng khả năng kiểm soát bướu.

Một số trường hợp xạ trị ưu thế hơn phẫu thuật do xạ trị có tính bảo tồn cơ quan tốt hơn, có thể tiếp cận tới những vị trí mà phẫu thuật không với tới được hoặc có thể thực hiện ở những bệnh nhân không thuận lợi cho phẫu thuật như bệnh nhân lớn tuổi, bệnh nhân có bệnh nội khoa nặng đi kèm.

Ưu thế của phương pháp này so với phương pháp xạ trị khác:

  • Có thể chọn lựa mức năng lượng, cường độ chùm tia tùy theo kích thước và độ nông sâu vị trí của khối u.
  • An toàn vì có chế độ ngừng phát tia khi tắt máy. Khác với máy xạ trị cobalt, chất phóng xạ vẫn phân rã liên tục khi máy ngừng hoạt động. Do đó với các máy xạ Cobalt trước đây, nguy cơ phơi nhiễm với nguồn phóng xạ của bệnh nhân và nhân viên y tế là rất cao, có thể gây nhiều ảnh hưởng lên sức khỏe. Ngoài ra, máy xạ Cobalt, hoạt độ phóng xạ sẽ giảm dần theo thời gian, việc đo đạt kiểm tra liều phải được thực hiện thường xuyên, và không thuận lợi khi muốn điều chỉnh cường độ chùm tia, mức năng lượng cho phù hợp với từng BN, hạn chế việc tối ưu hóa kế hoạch điều trị
  • Tiết kiệm thời gian, không gây đau đớn cho bệnh nhân.

Tuy nhiên, phương pháp này có chi phí khá cao so với những phương pháp khác.

Nguyên lý hoạt động máy gia tốc
Nguyên lý hoạt động của hệ thống xạ trị bằng máy gia tốc

Các electron được sinh ra do bức xạ nhiệt từ súng điện tử rồi được phát thành xung và phun vào buồng tăng tốc. Tại đây, sự hút chân không dưới áp suất thấp sẽ làm tăng tốc chùm tia electron. Cùng với việc sử dụng sóng siêu âm cao tần trong hệ thống máy gia tốc sẽ giúp cho các chùm hạt tia xạ chuyển động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng. Khi các hạt electron này đến va chạm với điện cực, sự kìm hãm đột ngột các hạt electron khi va chạm tạo ra chùm tia bức xạ (tia photon). Cuối cùng, các bức xạ sẽ được hội tụ lại ở vị trí mong muốn nhờ hệ thống hội tụ từ trường và hệ thống ống chuẩn trực.

1.2. Xạ trị điều biến liều (IMRT)

IMRT là kỹ thuật xạ trị tiến tiến có độ chính xác cao, sử dụng máy gia tốc tuyến tính do máy tính điều khiển chiếu các chùm tia bức xạ với cường độ khác nhau từ nhiều hướng khác nhau đến khối u với liều bức xạ và vị trí chính xác, phù hợp hơn so với kỹ thuật xạ trị 2D, 3D và 3D-CRT.

Kỹ thuật được chỉ định áp dụng rộng rãi cho điều trị ung thư tuyến tiền liệt, ung thư não, ung thư vùng đầu cổ (vòm hầu, hốc miệng) hoặc ung thư vùng chậu (trực tràng, tử cung, cổ tử cung) và các ung thư khác ở giai đoạn sớm ở vị trí không thuận lợi cho phẫu thuật.

Tác dụng phụ của xạ trị ung thư
IMRT là kỹ thuật xạ trị tiến tiến có độ chính xác cao, sử dụng máy gia tốc tuyến tính do máy tính điều khiển chiếu các chùm tia bức xạ

Mặt khác, IMRT có tính chọn lọc cho phép chiếu xạ liều bức xạ cao hơn với khối u và giảm liều thấp dưới ngưỡng cho phép đối với các mô lành. Do đó làm tăng hiệu quả trị liệu, đồng thời giảm tác dụng phụ và biến chứng so với các kỹ thuật xạ trị khác.

Quy trình thực hiện:

  • Khám và giải thích với bệnh nhân về kỹ thuật IMRT.
  • Chụp CT mô phỏng ở tư thế điều trị.
  • Xây dựng hình ảnh 3D của bệnh nhân trên hệ thống lập kế hoạch điều trị dựa trên hình ảnh chụp CT mô phỏng.
  • Xác định vị trí và vẽ khối u với những bộ phận quan trọng trên hình ảnh 3D của bệnh nhân.
  • Lập kế hoạch điều trị và tiến hành điều trị. Thời gian điều trị thường kéo dài từ 25-35 ngày tùy thuộc vào khối u và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.

1.3 Xạ trị điều biến thể tích cung tròn (VMAT)

VMAT là một biến thể của IMRT, được gọi là liệu pháp xạ trị điều biến thể tích cung tròn. Kĩ thuật này cũng sử dụng máy xạ trị gia tốc, tuy nhiên cách phát tia được tối ưu hơn bằng cách máy phát tia sẽ phát tia khi máy di chuyển theo một hay nhiều cung tròn xung quanh trục cơ thể bệnh nhân, giúp rút ngắn thời gian điều trị chỉ còn trong vài phút.

Chỉ định của kĩ thuật này cũng tương tự như kĩ thuật xạ trị IMRT. Ngoài ra trong một số trường hợp vị trị bướu ngay cạnh các cơ quan quí hoặc bướu lớn, với các kĩ thuật xạ thông thường có thể không bảo vệ được cơ quan lành hoặc không đảm bảo đủ liều đến bướu thì kĩ thuật này ưu thế hơn.

Ưu điểm:

  • Cho phép điều trị bức xạ với liều cao tại khối u một cách chính xác, tăng khả năng kiểm soát khối u và hạn chế tác dụng phụ trên các tổ chức lành.
  • Cho phép xạ trị đồng thời nhiều liều xạ khác nhau vào các thể tích điều trị khác nhau, giúp rút ngắn thời gian điều trị, tăng khả năng tiêu diệt khối u và giảm được chi phí điều trị cho bệnh nhân.

Ngoài những kỹ thuật trên, trong xạ trị ngoài còn có một số kỹ thuật khác cũng được ứng dụng trong điều trị ung thư như: liệu pháp xạ trị định vị lập thể (hay còn xạ phẫu định vị thân thể và xạ phẫu hệ thần kinh trung ương. Những kĩ thuật này đều đang được thực hiện tại BV Vinmec Central Park.

2. Xạ trị áp sát

Xạ trị áp sát là tên gọi chung của kĩ thuật xạ trị trong đó nguồn phóng xạ được đưa tới sát khối bướu. Về phân loại, có thể phân loại kĩ thuật này theo:

Xạ trị áp sát theo vị trí tổn thương:

  • Xạ trị áp sát trong các xoang và các hốc (ví dụ xạ trị áp sát ung thư cổ tử cung, ung thư vòm hầu
  • Xạ trị áp sát trong các mô (nguồn phóng xạ được đưa vào khối bướu thông bằng cách cắm kim xuyên qua bướu, ví dụ xạ trị ung thư lưỡi, môi, ung thư tiền liệt tuyến... )
  • Xạ trị áp sát trong các lòng ống (ví dụ xạ trị áp sát ung thu thực quản, phế quản)

Xạ trị áp sát theo phương pháp nạp nguồn:

  • Xạ trị áp sát nạp nguồn tức thì.
  • Xạ trị áp sát nạp nguồn sau.
  • Xạ trị áp sát nạp nguồn trực tiếp.
  • Xạ trị áp sát nạp nguồn từ xa.

3. Xạ trị chuyển hóa

Là kỹ thuật xạ trị có sử dụng các chất phóng xạ để đưa vào cơ thể bằng đường uống hoặc đường tiêm. Sau khi vào cơ thể, các chất phóng xạ sẽ được tập trung tại các mô ung thư. Tại đây, các dược chất phóng xạ sẽ phát ra các bức xạ alpha hoặc bức xạ beta có khả năng tiêu diệt làm chết các tế bào ung thư. Ví dụ điều trị ung thư tuyến giáp bằng uống iod phóng xạ.

4. Phối hợp xạ trị

Hóa trị liệu bằng đường tiêm dưới da
Xạ trị phối hợp đồng thời với hóa trị liệu

Xạ trị phối hợp đồng thời với hóa trị liệu. Ứng dụng cho các bệnh nhân ung thư vùng đầu cổ, trực tràng, phụ khoa, giai đoạn tiến triển tại chỗ tại vùng, khi phẫu thuật không phải là lựa chọn tối ưu nhất hoặc bệnh nhân không mong muốn phẫu thuật.

Xạ trị trong lúc mổ: xạ trị được thực hiện bằng máy xạ trị ngoài, thực hiện ngay tại phòng mổ khi bệnh nhân còn đang mê và nằm trên bàn mổ. Kĩ thuật này giúp đưa một liều xạ nhất định đến sát khối bướu với độ chính xác rất cao. Kĩ thuât này thực hiện cho một số ung thu đường tiêu hóa, ung thư vú, ung thư da...

Điều trị ung thư vẫn luôn là một vấn đề nan giải trong chuyên ngành Y khoa và là nỗi lo sợ của mọi người trên thế giới nói chung, của bệnh nhân nói riêng. Hiện tại, sau các quá trình thăm khám, dựa trên chẩn đoán và các xét nghiệm cận lâm sàng, các bác sĩ của bệnh viện Vinmec đã chỉ định chọn lựa từng phương pháp xạ trị phù hợp với từng bệnh nhân và từng loại khối u khác nhau. Hiệu quả trị liệu và tỷ lệ thành công của các quá trình trị xạ lên đến 95% cho mỗi trường hợp. Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn điều trị kịp thời và tối ưu nhất.

Xạ trị điều trị ung thư là một phương pháp được ứng dụng phương pháp ứng dụng phổ biến trong y khoa. Hiện tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park đã ứng dụng phương pháp này điều trị thành công cho rất nhiều trường hợp ung thư giúp giảm thiểu các triệu chứng lâm sàng và hạn chế sự di căn ung thư.

Khoa Ung bướu tại Vinmec Central Park trang bị đầy đủ các mô thức điều trị ung thư: Từ phẫu thuật, xạ trị, hoá trị.... điều trị đau và chăm sóc giảm nhẹ. Việc chẩn đoán được thực hiện cẩn trọng: Xét nghiệm máu, chụp X- quang, siêu âm, chụp cộng hưởng từ, xét nghiệm tủy huyết đồ, tủy đồ, sinh thiết, xét nghiệm hóa mô miễn dịch, chẩn đoán bằng sinh học phân tử.

Quá trình điều trị được phối hợp chặt chẽ cùng nhiều chuyên khoa: Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh, Xét nghiệm cận lâm sàng, Tim mạch, Khoa Sản phụ, Khoa nội tiết, Khoa Phục hồi chức năng, Khoa tâm lý, Khoa Dinh dưỡng, Khoa Điều trị đau và chăm sóc giảm nhẹ, nhằm mang đến cho bệnh nhân phác đồ chữa trị tối ưu và chi phí hợp lí nhất.

Bác sĩ chuyên khoa II Bùi Lê Phước Thu Thảo có kinh nghiệm gần 15 năm trong việc điều trị trực tiếp bệnh nhân ung thư, đặc biệt là xạ trị ung thư và chăm sóc cho bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, chăm sóc giảm nhẹ và giảm đau. Bác sĩ Thảo đã từng tham gia nhiều khóa đào tạo nâng cao trong và ngoài nước như xạ trị nâng cao tại Singapore và Hàn Quốc, khóa đào tạo Giảng viên quốc gia Chăm sóc giảm nhẹ của Đại học Harvard. Hiện nay bác sĩ Thảo đang công tác tại Trung tâm Ung thư - Xạ trị, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.

Khách hàng có thể trực tiếp đến Vinmec Central Park để thăm khám hoặc liên hệ hotline 0283 6221 166, 0283 6221 188 để được hỗ trợ.

XEM THÊM:

Bài viết này được viết cho người đọc tại Hồ Chí Minh.

2.2K

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan